Thời gian vừa qua, Agribank cùng ngành Ngân hàng tích cực triển khai đồng bộ các chính sách, giải pháp nhằm huy động tối đa nguồn lực để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội Tây Nguyên. Tại khu vực này, với 87% tổng dư nợ Agribank đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, trong đó dành nguồn vốn phát triển cây cà phê, Agribank đã và đang tích cực góp phần đưa chính sách tái canh cà phê đi vào cuộc sống, giúp bà con bản làng nơi đây có cuộc sống ấm no từ cây công nghiệp chủ lực này.
Giúp người dân Tây Nguyên làm giàu từ cây cà phê
Với lợi thế về địa hình, khí hậu, đất đai thổ nhưỡng, cà phê được xác định là một trong những cây chủ lực của các địa phương khu vực Tây Nguyên. Những năm qua, ngành Ngân hàng rất quan tâm đầu tư nhằm phát huy những tiềm năng, lợi thế của vùng Tây Nguyên để phát triển kinh tế, trong đó điển hình là chương trình cho vay đối với cây cà phê. Đến cuối năm 2016, dư nợ cho vay ngành Ngân hàng đối với ngành cà phê tại khu vực Tây Nguyên đạt trên 45.000 tỷ đồng, tăng 13,53% so với 31/12/2015 (chiếm 92,4% dư nợ cho vay đối với ngành cà phê toàn quốc).
[caption id="attachment_161842" align="aligncenter" width="618"] Nguồn vốn Agribank giúp người dân Tây Nguyên làm giàu từ cây cà phê[/caption]
Với thị phần chiếm 1/3 nguồn vốn của ngành ngân hàng đầu tư cho khu vực Tây Nguyên, 87% nguồn vốn tại khu vực này được Agribank dành đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, riêng tín dụng đối với ngành cà phê, đến 31/12/2016, dư nợ cho vay đối với ngành cà phê tại Tây Nguyên của Agribank đạt 13.397 tỷ đồng, chiếm 30% tổng dư nợ cho vay ngành cà phê của các TCTD trên địa bàn Tây Nguyên. Trong đó: Cho vay trồng, chăm sóc cây cà phê đạt: 8.942 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 67% tổng dư nợ cho vay cà phê. Cho vay thu mua chế biến đạt: 3.531 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 26% tổng dư nợ cho vay cà phê. Cho vay xuất khẩu đạt: 178 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 1.3% tổng dư nợ cho vay cà phê. Riêng cho vay tái canh cà phê, đến 31/12/2016, Agribank đã cho vay tái canh cà phê tại khu vực TâyNguyên 746 tỷ đồng, tăng 1,18% so với cuối năm 2015. Diện tích tái canh 10.436 ha (tăng 1.928 ha so với cuối năm 2015). 5.716 khách hàng (12 tổ chức và 5.704 cá nhân) đã được tiếp cận nguồn vốn lãi suất ưu đãi để thực hiện tái canh. Nhiều doanh nghiệp như Công ty TNHH MTV Cà phê Phước An, Công ty TNHH MTV Cà phê 52, cùng nhiều hộ sản xuất và cá nhân trên địa bàn sản xuất kinh doanh hiệu quả từ nguồn vốn đầu tư của Agribank.
Công ty TNHH MTV Cà phê 52, tỉnh Đắk Lắk có 72 ha cà phê tái canh của Công ty đã bước sang tháng tuổi thứ 7 là một phần của dự án tái canh cây cà phê đã được Agribank chi nhánh Đắk Lắk cho vay theo gói tín dụng hỗ trợ tái canh cà phê của Chính phủ. Trong năm 2017, Công ty sẽ tiếp tục trồng tái canh 130 ha, và như vậy chỉ sang đến đầu năm 2018, dự án tái canh 230 ha cà phê của công ty sẽ hoàn thành. Cùng lúc đó, 72 ha cà phê tái canh sẽ cho vụ thu bói đầu tiên với nhiều kỳ vọng khả quan từ giống cà phê năng suất chất lượng cao TRS1.
Còn với Công ty TNHH MTV Cà Phê Phước An có trụ sở đóng tại huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk, với sự trợ lực nguồn vốn từ Agribank, giá trị của cây cà phê đang ngày được gia tăng. Doanh thu hàng năm hơn 300 tỷ đồng và 95% sản phẩm của công ty xuất khẩu ra thị trường thế giới có chỗ đứng tại những thị trường khó tính tại EU, Singapore, Hàn Quốc, Nga, đặc biệt là Nhật Bản. Vào những thời điểm khó khăn nhất, có lúc giá cà phê chỉ còn 4.000 đồng/kg, Agribank luôn luôn sát cánh cùng doanh nghiệp vượt qua, vững niềm tin về tương lai tốt đẹp của cây cà phê, ngành cà phê… Agribank đồng hành cùng doanh nghiệp trong mỗi dự án sản xuất kinh doanh, làm hồ sơ đi xin đất vỡ hoang trồng 1.000 ha cà phê tại huyện Krông Búk, đầu tư nhà máy để sản xuất cà phê chất lượng theo tiêu chuẩn UTZ Certified (cà phê sạch đảm bảo truy nguyên nguồn gốc)…
[caption id="attachment_161843" align="aligncenter" width="651"] Agribank đồng hành cùng Lễ hội Cà phê, sự kiện quan trọng
của ngành Cà phê Việt Nam[/caption]
Gần 02 năm thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về cho vay tái canh cây cà phê, với sự chỉ đạo sát sao của Thống đốc NHNN, sự vào cuộc tích cực của Agribank, chính sách cho vay tái canh cà phê đã và đang từng bước đi vào cuộc sống, giúp các hộ dân tái canh cây cà phê, đảm bảo sinh kế lâu bền. Mô hình tái canh cà phê của gia đình ông Nguyễn Văn Huynh, 61 tuổi, thôn 3, xã Eadar, huyện Eaka, Đắk Lắk là một trong rất nhiều hộ thành công từ nguồn vốn Agribank. 01 héc ta đất tái canh cà phê gây trồng từ tháng 8/2015 với nguồn vốn vay 70 triệu đồng từ Agribank chi nhánh Đắk Lắk bắt đầu thu bói vụ đầu tiên. “Không chỉ bói hơn, hạt cà phê vối giống mới này to hơn cả quả cà phê giống cũ”- ông Huynh khoe. Nguồn thu từ chăn nuôi đàn dê 12 con, 5 con bò và đàn lợn là “điểm tựa” giúp gia đình ông mạnh dạn phá bỏ diện tích cà phê cũ, tái canh. Nếu mọi việc tốt đẹp, năm sau ông sẽ lên kế hoạch tái canh nốt 1,6ha cà phê đang nhận khoán.
Có thể nhận thấy rất rõ, với sự đồng hành tích cực của Agribank, nhiều mô hình sản xuất như gia đình ông Huynh, các doanh nghiệp cà phê đang góp phần làm khởi sắc “bức tranh” kinh tế hộ tại Tây Nguyên, đưa cây cà phê thực sự hồi sinh, từng bước nâng cao giá trị của cà phê Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Để chương trình tái canh cà phê thực sự hiệu quả, Agribank tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp vay tái canh cà phê. Nhất là với các hộ dân, việc giải ngân được Agribank thực hiện chỉ trong ngày. Đến nay, 5.716 khách hàng đã được tiếp cận nguồn vốn lãi suất ưu đãi của Agribank.
Đảm bảo tính bền vững của chính sách
Cà phê là một trong những cây trồng mà nhiều hộ dân Tây Nguyên chọn để xoá đói giảm nghèo và khởi đầu cho phát triển kinh tế hàng hoá, bởi suất đầu tư thấp chỉ 150 triệu đồng/ha, trong khi đó những cây trồng khác, như hồ tiêu, suất đầu tư cao hơn gấp 3-5 lần. Theo định hướng của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam về phát triển ngành cà phê bền vững đến năm 2020, tổng diện tích trồng cà phê cả nước ổn định khoảng 600 nghìn ha. Trong đó vùng trọng điểm phát triển cà phê gồm 4 tỉnh Tây Nguyên với khoảng 530 nghìn ha (Đăk Lăk 190 nghìn ha, Lâm Đồng 150 nghìn ha, Gia Lai 75 nghìn ha, Đăk Nông 115 nghìn ha). Các vùng cà phê khác gồm 7 tỉnh, khoảng 70 nghìn ha (gồm Đồng Nai, Bình Phước, Kon Tum...). Ngoài ra sẽ quy hoạch một số vùng cà phê chè chất lượng cao (cà phê nuôi chồn và cà phê hữu cơ) tại Lâm Đồng, Kon Tum, Sơn La, Điện Biên. Tuy nhiên theo thống kê thì đến nay, cả nước đã có khoảng 650 nghìn ha cà phê, được trồng ở 105 huyện của 22 tỉnh, thành phố, bao gồm 5 vùng sản xuất chính là Tây Nguyên (5 tỉnh, 53 huyện), Đông Nam bộ (6 tỉnh, 27 huyện), Nam Trung bộ (3 tỉnh, 4 huyện), Bắc Trung bộ (4 tỉnh, 8 huyện) và trung du miền núi phía Bắc (3 tỉnh, 12 huyện, thị xã).
[caption id="attachment_161844" align="aligncenter" width="696"] Xác định cho vay cà phê là chương trình tín dụng trọng tâm,
Agribank mong muốn cà phê Việt Nam từng bước khẳng định giá trị
trong chuỗi giá trị toàn cầu[/caption]
Kế hoạch tái canh cà phê ở Tây Nguyên đến năm 2020, theo Quyết định Phê duyệt Đề án tái canh cà phê các tỉnh vùng Tây Nguyên giai đoạn 2014 – 2020 số 4521/QĐ-BNN-TT ngày 21/10/2014 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, giai đoạn 2014-2020 trồng và ghép cải tạo khoảng 120.000 ha cà phê trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên, trong đó trồng tái canh khoảng 90.000 ha, ghép cải tạo khoảng 30.000 ha.
Để thực hiện tái canh cho diện tích cà phê nêu trên cần một lượng vốn đầu tư lên tới hàng nghìn tỷ đồng, ước khoảng 13 nghìn tỷ đồng, trong đó chủ yếu từ nguồn vốn tín dụng của Agribank. Trong quá trình triển khai cho vay tái canh cà phê, muốn đạt hiệu quả cao hơn nữa, cần sớm tháo gỡ được những khó khăn, vướng mắc vốn xuất phát chủ yêu từ những nguyên nhân khách quan.
Đối với các hộ trồng cà phê, đa số diện tích cây cà phê trồng sau năm 1990, năng suất, sản lượng đang còn cao, chưa có nhu cầu tái canh. Mặt khác, thời gian vừa qua, giá cà phê đã giảm đã ảnh hưởng đến tâm lý người dân. Trong khi đó, hiện nay giá cây hồ tiêu, cây bơ rất cao, hiệu quả kinh tế hơn so với cây cà phê do đó người dân cũng lựa chọn phương án trồng mới cây tiêu, bơ hoặc trồng xen hồ tiêu, bơ trên diện tích cà phê già cỗi hơn là thực hiện tái canh cà phê. Riêng tại các tỉnh Tây Nguyên, các hộ nông dân trồng cà phê chưa mạnh dạn thực hiện tái canh cây cà phê vì đa số diện tích cà phê cần tái canh chủ yếu nằm ở các hộ dân độc canh cây cà phê, vườn cà phê là nguồn thu nhập chính của gia đình nhưng theo quy trình tái canh có 2 năm cải tạo đất và 3 năm kiến thiết, hộ nông dân bị gián đoạn thu nhập ít nhất 5 năm, ảnh hưởng đến đời sống của hộ nông dân. Một nguyên nhân khách quan khác đó là tài sản trên đất của nông dân (nhà cửa, vườn cà phê) chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, dẫn đến việc xác định giá trị tài sản bảo đảm và thực hiện hợp đồng thế chấp rất khó khăn. Bên cạnh đó, giá chuyển nhượng vườn cà phê thực tế rất cao nhưng khi xác định giá thế chấp thì tính theo giá đất nông nghiệp do UBND tỉnh công bố hằng năm, dẫn đến hệ luỵ là người nông dân không thể huy động được nguồn kinh phí cần thiết để thực hiện tái canh. Bên cạnh đó, diện tích đất đủ điều kiện đất để trồng cải tạo 2 đến 3 năm (theo quy trình tái canh của Bộ NNPTNT) để trồng tái canh cà phê rất ít, chủ yếu các hộ nông dân tái canh theo kiểu cuốn chiếu, mỗi hộ gia đình tái canh một phần diện tích cà phê để đảm bảo thu nhập phục vụ cuộc sống và nguồn thu trả lãi ngân hàng chứ không thể tiến hành tái canh trên toàn bộ diện tích cà phê già cỗi. Điều này gây khó khăn trong việc xác định diện tích tái canh cây cà phê thực tế. Ngoài ra có các nguyên nhân khác như: Tâm lý người dân không thích việc nhận vốn giải ngân từng lần thực hiện tiến độ dự án đúng theo quy trình tái canh được ban hành mà muốn giải ngân một lần; Hầu hết các hộ dân có nhu cầu vay vốn tái canh cà phê đều đang có dư nợ và thế chấp tài sản bằng vườn cây cà phê tại ngân hàng, chưa có khả năng trả hết nợ cũ để thực hiện vay gói tái canh; Cung cấp hóa đơn chứng từ đối với hộ nông dân cũng là một khó khăn lớn vì hầu hết hộ nông dân giao dịch mua bán tại các đại lý quen đều không lấy hóa đơn; Một số hộ xin vay vốn tái canh cà phê nhưng cây cà phê đã trồng mới được một đến hai năm, điều này gây khó khăn cho ngân hàng trong việc xác định hộ này có tái canh cà phê theo đúng quy trình của bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn hay không và nếu hộ vay này tái canh đúng theo quy trình thì ngân hàng có được cho vay và giải ngân từ nguồn vốn cho vay tái canh cà phê hay không; Các hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa không có khả năng tài chính hoặc tài sản không đáp ứng được đủ các điều kiện vay vốn, khó triển khai thực hiện tái canh…
Còn đối với doanh nghiệp trồng cà phê: Đối với các Doanh nghiệp có nhu cầu tái canh cà phê rất lớn nhưng khó tiếp cận nhu cầu vốn vay do vốn tự có đối với các Doanh nghiệp Nhà nước thấp không đủ tham gia thực hiện dự án theo quy định; Các công ty cà phê vay vốn để trả lại phần tiền cho các hộ nông trường viên liên kết đã thực hiện tái canh cà phê thì không được hưởng chính sách cho vay tái canh cà phê (chỉ được áp dụng đối tượng cho vay bù đắp tài chính) nên không thể triển khai. Khó khăn khác liên quan đến việc tài sản bảo đảm chưa được cấp quyền sở hữu...
Bên cạnh đó, quy trình tái canh theo quy định của Bộ NN&PTNT còn những bất cập, chưa sát với thực tế, như vướng mắc về thời gian luân canh, về phân tích mầm bệnh, tuyến trùng trong đất và quy định về giống cây cà phê. Việc xác định diện tích tái canh cà phê, diện tích xen ghép cải tạo; xác định diện tích tái canh ở các mức độ khác nhau (diện tích không phải luân canh, luân canh 1 năm, 2 năm) để lập cơ sở dữ liệu cho tái canh còn lúng túng ở các địa phương…
Vì vậy, để chương trình tái canh cà phê thực sự hiệu quả cùng với sự vào cuộc của ngành Ngân hàng, rất cần sự vào cuộc, sự hỗ trợ của địa phương cũng như các ngành các cấp trong việc hỗ trợ người dân các sinh kế ngắn hạn tạo nguồn thu trong giai đoạn tái canh cà phê. Thêm vào đó, trong bối cảnh tình hình hạn hán tại Tây Nguyên rất nghiêm trọng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần cân nhắc đưa nội dung cho vay đầu tư tưới nước tiết kiệm khi Bộ sửa đổi Quyết định 68/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Để góp phần đưa cà phê thực sự trở thành “đòn bẩy” phát triển kinh tế Tây Nguyên trong dài hạn, Agribank gia tăng tính chủ động về nguồn vốn, cùng ngành Ngân hàng tích cực trong việc điều chuyển nguồn vốn cho khu vực Tây Nguyên, đồng thời tìm giải pháp có tính cởi mở, tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn cho DN, giúp DN có khả năng tiếp cận vốn được nhanh hơn, gia tăng thêm sức cạnh tranh … Thông qua nguồn vốn tín dụng, Agribank mong muốn đồng hành cùng nhiều DN, hộ nông dân, trang trại, đồng bào dân tộc thiểu số có điều kiện mở rộng, phát triển sản xuất, đẩy mạnh khai thác các thế mạnh của khu vực như: phát triển các loại hình cây công nghiệp ngắn ngày (cà phê, cao su, hồ tiêu...), phát triển nông nghiệp công nghệ cao giúp phát huy thế mạnh của vùng, góp phần thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân, đảm bảo ổn định an ninh – quốc phòng tại khu vực Tây Nguyên.
Tại khu vực Tây Nguyên, đến 31/12/2016, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên của Agribank đạt 36.999 tỷ đồng, chiếm 30% nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Tây Nguyên. Tổng dư nợ tín dụng đạt 59.740 tỷ đồng, chiếm thị phần 27% tổng dư nợ cho vay của các TCTD trên địa bàn Tây Nguyên. Chất lượng tín dụng được đảm bảo, tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên đến cuối năm 2016 là 0.88%). Agribank đầu tư tín dụng đối với các lĩnh vực ưu tiên, các chương trình tín dụng đặc thù gồm: Dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt 51.766 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 87% dư nợ cho vay của Agribank tại khu vực Tây Nguyên; đầu tư tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu; doanh nghiệp nhỏ và vừa…
Theo Agribank