Kinh nghiệm quản lý, giám sát kiểm toán độc lập tại một số quốc gia và một số đề xuất tham khảo cho Việt Nam

(Pháp lý) –Là quốc gia đi sau các quốc gia trên thế giới trong lĩnh vực kiểm toán độc lập, việc nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia phát triển sẽ giúp Việt Nam đạt hiệu quả trong quá trình phát triển dịch vụ kiểm toán độc lập.

1-1727064334.jpg

Ảnh minh họa

Trung Quốc: Kiểm soát theo mô hình luật định

Tại quốc gia đông dân thứ hai thế giới, việc quản lý và giám sát hoạt động KTĐL được điều chỉnh bởi: Luật Kiểm toán độc lập, Luật Kế toán viên công chứng, hay nói cách khác thực hiện theo mô hình luật định. Ở mỗi cơ quan Nhà nước và Hội nghề nghiệp lại chia ra thành cấp Trung ương và cấp địa phương. Hình thức kiểm tra, chủ yếu được thực hiện theo phương thức kiểm tra bắt buộc kết hợp với kiểm tra chéo. Trong đó, các cơ quan quản lý nhà nước (Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán) thực hiện kiểm tra bắt buộc; Hội Kế toán công chứng Trung Quốc thực hiện kiểm tra chéo. Ủy ban Chứng khoán thực hiện kiểm tra trực tiếp các DNKiT thực hiện kiểm toán cho các tổ chức niêm yết. 

Hội Kế toán công chứng Trung Quốc (CICPA) là tổ chức nghề nghiệp lớn ở Trung Quốc. Để trở thành hội viên CICPA, phải là người đã có chứng chỉ kế toán viên công chứng, hội viên tổ chức phải là các DNKiT và doanh nghiệp kế toán.

Tại Trung Quốc quy định các DNKiT và doanh nghiệp kế toán và người hành nghề kế toán, kiểm toán bắt buộc phải là hội viên của CICPA. Quy định của Hội Kế toán công chứng Trung Quốc, tất cả các DNKiT không phân biệt kiểm toán cho các công ty niêm yết hay các loại hình doanh nghiệp khác đều phải được tiến hành kiểm tra ít nhất là 5 năm một lần. Hệ thống chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp trước khi công bố, Chính phủ giao cho Hội Kế toán công chứng Trung Quốc nghiên cứu, soạn thảo; nhằm đề cao việc quản lý, chất lượng kiểm toán và đạo đức nghề nghiệp của kế toán viên.

Khi lựa chọn DNKiT giám sát, kiểm tra, ngoài phương pháp lựa chọn ngẫu nhiên, CICPA thường chú ý các vấn đề: (i) Khi đơn vị được kiểm toán thay đổi DNKiT, DNKiT thay thế có khả năng có rủi ro kiểm toán lớn; (ii) Có tranh chấp khá lớn giữa các cổ đông, thành viên góp vốn của DNKiT, hay việc kiểm toán có khả năng ảnh hưởng đến chất lượng báo cáo tài chính; (iii) Sử dụng các thủ đoạn cạnh tranh không lành mạnh để thu hút khách hàng; (iiii) Có sự tố giác về hành vi vu khống của DNKiT này đối với DNKiT khác làm tổn hại đến lợi ích của các DNKiT… Trên cơ sở thẩm tra các báo cáo kiểm tra, Hội Kế toán công chứng đưa ra các kiến nghị, sửa đổi đối với các sai phạm của DNKiT và kiểm toán viên; nếu các tồn tại là nghiêm trọng thì sẽ tái kiểm tra vào năm sau.

Hằng năm, Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán đều công khai kết quả kiểm tra, nêu các vấn đề quan trọng và đưa ra các vấn đề tồn tại nghiêm trọng sẽ tái kiểm tra vào năm sau. Các sai phạm cần phải kỷ luật thì căn cứ vào tình tiết về kiểm toán liên quan, tập trung vào các nội dung chú trọng của từng năm. Trường hợp kiểm toán viên hay DNKiT từ chối, cản trở công tác kiểm tra hoặc không tuân theo yêu cầu sau kiểm tra sẽ công khai thông báo. 

Khi phát hiện DNKiT có vi phạm thông qua kiểm tra định kỳ của cấp địa phương hoặc phát hiện qua các báo cáo hằng năm, hoặc qua báo chí, qua tố giác sẽ bị xử phạt hành chính như phạt tiền, cảnh cáo hoặc triệu tập đương sự đến giải trình tại Ủy ban Xử phạt hành chính. Nếu phát hiện vi phạm cấu thành tội phạm thì chuyển hồ sơ sang cơ quan tố tụng.

Nhà nước Trung Quốc thực hiện quản lý, giám sát kiểm toán độc lập toàn diện với mục tiêu: tăng trưởng và phát triển của các DNKiT trong nước đạt chất lượng kiểm toán quốc tế, ưu tiên phát triển các DNKiT lớn của Trung Quốc và mở cửa cho các hãng kiểm toán nước ngoài đào tạo, hướng dẫn, tư vấn cho người Trung Quốc điều hành công việc nhưng không khuyến khích người nước ngoài tham gia vào quản lý các DNKiT của Trung Quốc. 

2-1727064342.jpg

Ảnh minh họa

Hoa Kỳ: Kiểm soát dựa vào hệ thống pháp lý

Chính phủ Hoa Kỳ quản lý chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập dựa vào hệ thống pháp lý. Hệ thống pháp lý không phụ thuộc vào chương trình làm luật của Quốc hội Hoa Kỳ mà được xây dựng ở cấp liên bang dựa trên thực tiễn thực hiện. Các đạo luật liên quan đến kiểm toán độc lập, như: Luật Kiểm toán độc lậpLuật Kế toán viên công chứngĐạo luật Sarbanes-Oxley chủ yếu là để thể chế hóa các chính sách lớn và dài hạn.

Chiến lược kiểm toán độc lập được xây dựng riêng biệt và luôn gắn kết với các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Cũng như Trung Quốc, tại Hoa Kỳ, Hiệp hội nghề nghiệp phát triển mạnh nên các chuẩn mực nghề nghiệp và đạo đức kiểm toán được Nhà nước giao cho Hiệp hội Kế toán công chứng Hoa Kỳ (AICPA) nghiên cứu, soạn thảo, ban hành, công bố và tổ chức thực hiện. 

Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán ở Hoa Kỳ được thực hiện dựa trên 02 Bộ chỉ số tương thích với 2 nhóm đối tượng: (i) Đối với các công ty đại chúng, Bộ chỉ số có 28 chỉ số do Ủy ban Giám sát hoạt động kế toán các công ty đại chúng (PCAOB) phát hành dựa trên Bộ chỉ số của Trung tâm Chất lượng kiểm toán Hoa Kỳ (US CAQ) đã ban hành; (ii) Đối với các công ty niêm yết, Bộ chỉ số có 20 chỉ số do US CAQ phát hành với sự hỗ trợ của Ủy ban Chứng chứng khoán.

Chủ thể thực hiện kiểm tra, giám sát chất lượng kiểm toán tại Hoa Kỳ được thực hiện thông qua sự phối hợp thực hiện của hai tổ chức là AICPA và PCAOB. Trong đó PCAOB có chức năng tương tự như cơ quan quản lý Chính phủ.

PCAOB thực hiện chọn mẫu DNKiT để kiểm tra dựa vào việc đánh giá các rủi ro của từng DNKiT cũng như dựa trên việc đánh giá các sai sót có thể xảy ra của các báo cáo tài chính đã được kiểm toán. PCAOB đặc biệt quan tâm đến các khoản mục rủi ro cao và ảnh hưởng xấu đến thị trường vốn. Tùy vào hệ thống kiểm soát chất lượng bên trong của từng DNKiT mà các thủ tục kiểm tra được xây dựng cho phù hợp. Các DNKiT phát hành hơn 100 báo cáo kiểm toán cho các công ty đại chúng sẽ kiểm tra chi tiết và phức tạp hơn các DNKiT nhỏ. Kết thúc kiểm tra, AICPA và PCAOB sẽ lập báo cáo kiểm tra nêu rõ các yếu kém trong hệ thống kiểm soát chất lượng của DNKiT.

Nếu kết quả điều tra cho thấy DNKiT hoặc kiểm toán viên vi phạm, AICPA sẽ trực tiếp tiến hành xử lý vi phạm bằng các hình thức: phạt tiền, hủy bỏ tư cách thành viên, thu hồi giấy phép hành nghề kiểm toán và cấm kiểm toán viên tham gia kiểm toán cho bất kỳ công ty đại chúng nào từ 1 – 5 năm, cảnh cáo và bắt buộc tham gia thêm các khóa đào tạo. Trong quá trình kiểm soát, các sai phạm của kiểm toán viên và DNKiT thực hiện kiểm toán cho các công ty đại chúng sẽ được AICPA và PCAOB báo cáo trực tiếp cho Ủy ban Điều tra hoặc sẽ báo cáo trực tiếp cho Ủy ban Chứng khoán. PCAOB sẽ tiến hành thủ tục tố tụng theo luật định và cấm kiểm toán viên tham gia kiểm toán cho bất kỳ công ty đại chúng nào từ 1 – 5 năm. 

Singapore: Theo mô hình nhà nước – hội đồng tư vấn

Singapore là quốc gia theo đường lối kinh tế tư bản với sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế được giảm thiểu tối đa. Singapore có môi trường kinh doanh mở, tham nhũng thấp, minh bạch tài chính. Nhà nước Singapore ủy quyền cho các cơ quan tác nghiệp trực tiếp thực hiện chức năng cung ứng dịch vụ, còn cấp bộ chỉ giữ lại trách nhiệm hoạch định chính sách.

Hệ thống pháp lý đối với kiểm toán độc lập tiếp cận theo hướng khách quan, phát triển bền vững dựa trên sự chuyển đổi từ tư duy về “thực hiện theo nhiệm vụ được giao” sang “hợp tác”, từ “cung ứng dịch vụ” sang “kiến tạo giá trị” luôn giúp cho Singapore có những chính sách phát triển kiểm toán độc lập bền vững. Cũng như Hoa Kỳ, Luật Kiểm toán độc lậpLuật Kế toán viên công chứng do Quốc hội ban hành để điều chỉnh các chính sách vĩ mô, dài hạn.

3-1727064342.jpg

Ảnh minh họa

Với mô hình Chính phủ mở, Singapore là quốc gia thực hiện công khai, minh bạch thông tin. Bộ Tài chính Singapore xây dựng ngân hàng dữ liệu để công khai thông tin về hành nghề kế toán, kiểm toán, công bố công khai kết quả kiểm tra và sai phạm của các DNKiT và kiểm toán viên hành nghề. Nhờ công khai và minh bạch trong kiểm soát, Singapore trở thành quốc gia có hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán chặt chẽ, các phương tiện quản lý hiệu quả nên phòng ngừa một cách hữu hiệu tham nhũng, bảo đảm trách nhiệm giải trình trong thi hành chính sách và pháp luật về kiểm toán độc lập. Thực hiện kiểm soát toàn diện, xây dựng kiểm toán độc lập có năng lực và phát triển bền vững, Singapore áp dụng chế tài xử phạt mạnh cả về kinh tế, hành chính và pháp luật đối với những sai phạm trong quản lý, sai phạm của các DNKiT và kiểm toán viên hành nghề. 

4-1727064342.jpg

Singapore là quốc gia có hệ thống kiểm soát chất lượng KTĐL tốt nhất ( ảnh minh họa)

Singapore quản lý và giám sát kiểm toán độc lập được thực hiện theo mô hình nhà nước – hội đồng tư vấn. Tuy nhiên, thực hiện chức năng quản lý vẫn là Bộ Tài chính. Hội đồng giám sát kế toán viên công chứng (PAOC) là cơ quan trực thuộc Cơ quan quản lý kế toán và doanh nghiệp –  ACRA, có trách nhiệm hỗ trợ quản lý, giám sát, hướng dẫn và rà soát các chuẩn mực kiểm toán, phương thức và quy trình kế toán áp dụng đối với các kế toán viên công chứng khi thực hiện cung cấp dịch vụ. Hội kế toán công chứng Singapore (ICPAS) là hội nghề nghiệp chuyên nghiệp thực hiện quản lý, giám sát chất lượng dịch vụ kiểm toán và bảo vệ lợi ích của những người hành nghề. Cơ quan quản lý nhà nước phối hợp với ICPAS, nghiên cứu, soạn thảo, ban hành, công bố các chuẩn mực kế toán, chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và tổ chức thi, cấp chứng chỉ hành nghề.

Chủ thể thực hiện kiểm soát, điều tra và đề xuất kỷ luật về các sai phạm của DNKiT và kiểm toán viên hành nghề là Hội đồng giám sát kế toán viên công chứng (PAOC). Cơ quan quản lý kiểm toán viên và doanh nghiệp hàng năm tổ chức Chương trình giám sát thực tế (PMP) để kiểm tra chất lượng kiểm toán dựa trên kết quả đánh giá về việc tuân thủ các chuẩn mực kiểm toán Singapore (SSA) và các quy định khác. Chương trình giám sát thực tế thực hiện theo hai hình thức kiểm tra: kiểm tra DNKiT và kiểm tra cuộc kiểm toán. ACRA thực hiện kiểm tra các DNKiT và cuộc kiểm toán cho các công ty niêm yết; ISCA thực hiện kiểm tra cấp độ cuộc kiểm toán cho các công ty không niêm yết. Việc phân bổ này sẽ giúp ACRA tập trung nguồn lực vào việc kiểm toán ảnh hưởng đến lợi ích công chúng nhiều hơn.

Một số gợi ý và đề xuất cho Việt Nam

Tổng kết từ thực tiễn, theo Bộ Tài chính, Luật KTĐL hiện hành nổi cộm 02 bất cập lớn, đó là: (i) Các quy định về kiểm tra, giám sát chất lượng kiểm toán viên và chất lượng dịch vụ kiểm toán chưa thật sự hiệu quả, các chế tài chưa đủ mạnh, đầy đủ và hiệu lực cho các hoạt động nghề nghiệp, việc xử lý vi phạm, xử lý vi phạm hành chính chưa đảm bảo tính răn đe; (ii) Phạm vi điều chỉnh chưa bao trùm được hết các đối tượng cần phải kiểm toán. Trên thực tế, có nhiều doanh nghiệp, tổ chức có quy mô lớn, có các giao dịch phức tạp, có số lượng lao động lớn, doanh thu hoạt động cao, ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế… nhưng không được kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm.

5-1727064342.jpg

Từ nhận diện đó, Bộ Tài chính kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật KTĐL 2011 gồm 03 nhóm chính sách: (i) Tăng cường hiệu lực, hiệu quả của các chế tài xử phạt theo hướng quy định thời hiệu xử phạt và mức phạt phù hợp, đảm bảo tính hiệu lực, tính răn đe, ngăn ngừa các hành vi vi phạm; quy định về hình thức, mức độ xử phạt tương ứng với bản chất của hành vi vi phạm; kéo dài thời hiệu xử lý vi phạm pháp luật về kiểm toán độc lập; (ii) Nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán độc lập, thông qua việc sửa đổi quy định đối với các trường hợp kiểm toán viên không được hành nghề kiểm toán; sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến kiểm toán viên hành nghề kiểm toán; (iii) Tăng cường tính trung thực và minh bạch của các thông tin được kiểm toán, bằng việc đề xuất bổ sung nhiều đối tượng phải kiểm toán bắt buộc.

Nghiên cứu từ kinh nghiệm các quốc gia trong kiểm soát dịch vụ kiểm toán độc lập nói trên và các hành vi vi phạm của các bị cáo trong các đại án xảy ra thời gian gần đây (điển hình là đại án xảy ra tại Vạn Thịnh Phát – Ngân hàng SCB), theo chúng tôi những đề xuất sửa đổi, bổ sung nói trên của Bộ Tài chính là cần thiết nhưng sẽ là đầy đủ và hoàn thiện hơn, nếu như dự án Luật KTĐL sửa đổi, bổ sung các nội dung điều chỉnh, như sau:

1.  Đề cao vai trò tham gia quản lý, giám sát của tổ chức nghề nghiệp

Từ Trung Quốc đến Mỹ, Singapore đều có Luật điều chỉnh dịch vụ kiểm toán độc lập nhưng các quốc gia này đều đề cao vai trò của tổ chức nghề nghiệp, đó là: Hội Kế toán công chứng Trung Quốc (CICPA), Hiệp hội Kế toán công chứng Hoa Kỳ (AICPA), và Hội kế toán công chứng Singapore (ICPAS). Các tổ chức Hội nghề nghiệp này không những được Chính phủ tin tưởng giao cho việc soạn thảo, chắp bút Hệ thống chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp trước khi công bố mà còn tham gia với cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện việc kiểm tra, giám sát chéo hoạt động dịch vụ KTĐL. Tại Hoa Kỳ, do Hiệp hội nghề nghiệp phát triển mạnh nên các chuẩn mực nghề nghiệp và đạo đức kiểm toán được Nhà nước giao cho AICPA nghiên cứu, soạn thảo, ban hành, công bố và tổ chức thực hiện…

Từ kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, sự can thiệp của Chính phủ vào quản lý, giám sát KTĐL thông qua một cơ quan, tổ chức trực thuộc Chính phủ hoặc là một tổ chức độc lập có chức năng như cơ quan Chính phủ là cần thiết. Song không thể thiếu sự tham gia quản lý, giám sát của tổ chức nghề nghiệp. Sự phối hợp quản lý giữa cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức nghề nghiệp sẽ đem lại hiệu quả cao hơn trong việc giám sát DNKiT và kiểm toán viên. Cơ quan, tổ chức giám sát có thể tận dụng nguồn nhân lực có kinh nghiệm và chuyên môn cao từ tổ chức nghề nghiệp để tham gia đội ngũ giám sát, phối hợp với tổ chức nghề nghiệp trong kiểm tra chất lượng kiểm toán của các DNKiT và xây dựng chuẩn mực nghề nghiệp. 

Do đó, Luật KTĐL sửa đổi, bổ sung tới đây, thiết nghĩ cần ưu tiên dành một dung lượng điều khoản nhất định (có thể là một Chương độc lập) trong cơ cấu để quy định về việc thành lập, điều chỉnh vai trò và chức năng hoạt động của tổ chức Hội nghề nghiệp (tạm gọi là Hội Kế toán Việt Nam) theo hướng phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước kiểm tra, giảm sát và tham gia hướng dẫn, tư vấn, phát hiện sau kiểm tra; có quy định tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức Hội nghề nghiệp này phát triển lớn mạnh; giao quyền cho Hội nghề nghiệp được chắp bút, dự thảo Bộ quy tắc (hoặc Bộ chỉ số) về các chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, trước khi trình Chính phủ thông qua...

2. Trao quyền chủ động trong xây dựng chính sách quản lý, giám sát KTĐL

Từ kinh nghiệm của các quốc gia cho thấy, chiến lược kiểm toán độc lập phải có tầm nhìn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và sự phát triển của kế toán, kiểm toán quốc gia. Tại Hoa Kỳ, chiến lược KTĐL được xây dựng riêng biệt nhưng  luôn gắn kết với các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Các nhà hoạch định cấp liên bang  được trao quyền chủ động, linh hoạt trong quá trình xây dựng, ban hành, cải cách hệ thống pháp lý nhưng các văn bản quy phạm pháp luật về kiểm toán luôn bám sát thực tiễn, đề cao mức độ giải trình và sự phản hồi của các nhóm lợi ích trong nền kinh tế trong quản lý, giám sát KTĐL. 

Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, sự ổn định, linh hoạt và tính dự báo cáo của hệ thống chính sách sẽ tạo môi trường thuận lợi cho KTĐL phát triển bền vững và nhận được sự đồng thuận cao từ phía các các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của chính sách.

Bài học rút ra trong quản lý, giám sát KTĐL của các quốc gia, đó là, các nhà quản lý và hoạch định chính sách nên được trao quyền chủ động và linh hoạt trong xây dựng và ban hành chính sách về KTĐL để đạt được mục tiêu quản lý. Quá trình xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách không chỉ quan tâm đến các quy trình, thủ tục, trình tự thực hiện để đạt kết quả đầu ra mà còn phải luôn đề cao mức độ giải trình và sự phản hồi của các nhóm lợi ích khác nhau trong nền kinh tế.

3. Xây dựng Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán phù hợp với Việt Nam

Việc kiểm soát chất lượng kiểm toán ở Hoa Kỳ và Singapore thành công còn là nhờ vào các Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán. Tại Hoa Kỳ duy trì 2 Bộ chỉ số tương thích với 2 nhóm đối tượng: (i) Nhóm các công ty đại chúng, Ủy ban Giám sát các công ty đại chúng (PCAOB) phát hành Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán với 28 chỉ số. Bộ chỉ số bao gồm các chỉ số chất lượng kiểm toán phổ biến trong Bộ chỉ số của Trung tâm Chất lượng kiểm toán Hoa Kỳ (US CAQ) đã ban hành và bổ sung thêm các chỉ số. Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán được xây dựng bao gồm các chỉ số thể hiện ở hai cấp độ: (i) Cấp độ doanh nghiệp kiểm toán (DNKiT); (ii) và Cấp độ hợp đồng dịch vụ; (ii) Nhóm các công ty niêm yết, để kiểm soát chất lượng kiểm toán, US CAQ với sự hỗ trợ của Ủy ban Chứng chứng khoán đã đưa ra Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán với 20 chỉ số.

6-1727064342.jpg
 

Việc xây dựng và ban hành Bộ tiêu chí về chỉ số chất lượng kiểm toán là hết sức cần thiết (ảnh minh họa)

Trong khi đó, Bộ chỉ số chất lượng kiểm toán của Singapore được ban hành với 8 chỉ số, bao gồm: (i) Các chỉ số định lượng (số giờ đào tạo trung binh tính cho nhân sự kiểm toán; tỷ lệ nhân viên kiểm toán trên 1 đối tác kiểm toán; số năm kinh nghiệm của nhân sự kiểm toán; kết quả các cuộc kiểm tra do cơ quan bên ngoài thực hiện; khối lượng công việc của đối tác kiểm toán); (ii) và các chỉ số định tính (kết quả soát xét nội bộ chất lượng hợp đồng dịch vụ; kinh nghiệm của nhân sự kiểm toán đối với lĩnh vực kinh doanh của hợp đồng; mức độ thuyên chuyển sang bộ phận khác hoặc doanh nghiệp khác của nhân viên kiểm toán).

Từ kinh nghiệm của Hoa Kỳ và Singapore cho thấy, việc xây dựng và ban hành Bộ tiêu chí về chỉ số chất lượng kiểm toán là hết sức cần thiết làm cơ sở cho việc đánh giá chất lượng kiểm toán của các DNKiT. Việt Nam hoàn toàn có thể tham khảo, vận dụng các Bộ tiêu chí về chỉ số chất lượng kiểm toán của Hoa Kỳ (đối với 2 nhóm công ty đại chúng và công ty niêm yết) và Singapore (đối với chỉ số định tính và định lượng) để xây dựng Bộ tiêu chí về chỉ số chất lượng kiểm toán phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

4. Công tác kiểm tra, giám sát KTĐL phải công khai, nghiêm minh

Kinh nghiệm từ các quốc gia cho thấy, chủ thể kiểm tra, giám sát chính trong hoạt động KTĐL là các cơ quan chức năng của Nhà nước. Ngay cả tại Hoa Kỳ mặc dù việc kiểm tra, giám sát thông qua chủ thể là Ủy ban Giám sát hoạt động kế toán các công ty đại chúng (PCAOB), nhưng chức năng của tổ chức này tương tự như cơ quan quản lý Chính phủ. Đối với các đơn vị có lợi ích công chúng thuộc lĩnh vực chứng khoán, ngoài cơ quan quản lý nhà nước trực tiếp cần có sự kiểm tra, giám sát của Ủy ban Chứng khoán. Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán tham gia giám sát, thực hiện kiểm tra chéo và kiểm soát chất lượng kiểm toán của các DNKiT và kiểm toán viên hành nghề. Tuy nhiên bí quyết thành công ở các quốc gia này còn nằm ở công đoạn công khai, minh bạch đối với kiểm tra, giám sát.

Tại Trung Quốc, Bộ Tài chính và Ủy ban Chứng khoán đều công khai kết quả kiểm tra chất lượng kiểm toán, nêu các vấn đề quan trọng và đưa ra các vấn đề tồn tại nghiêm trọng sẽ tái kiểm tra vào năm sau. Ngay cả trường hợp kiểm toán viên hay DNKiT từ chối, cản trở công tác kiểm tra hoặc không tuân theo yêu cầu sau kiểm tra cũng sẽ công khai thông báo. 

Bộ Tài chính Singapore xây dựng ngân hàng dữ liệu để công khai thông tin về hành nghề kế toán, kiểm toán, công bố công khai kết quả kiểm tra và sai phạm của các DNKiT và kiểm toán viên hành nghề. Nhờ công khai và minh bạch trong kiểm soát, Singapore trở thành quốc gia có có hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán chặt chẽ, các phương tiện quản lý hiệu quả nên phòng ngừa một cách hữu hiệu tham nhũng, bảo đảm trách nhiệm giải trình trong thi hành chính sách và pháp luật về kiểm toán độc lập.

Từ đó cho thấy sự cần thiết, bên cạnh việc gia tăng chế tài đảm bảo đủ sức răn đe tội phạm, việc sửa đổi các điều khoản liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát kết quả KTĐL phải hướng đến đề cao tính minh bạch, nghiêm minh trong kết quả kiểm tra, giám sát và xử lý. Nghĩa là phải có quy định công bố công khai, rõ ràng quy trình kiểm soát và những sai phạm của đơn vị được kiểm toán, DNKiT và kiểm toán viên hành nghề; trình tự, thủ tục xử lý sai phạm phải chặt chẽ nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý và người có thẩm quyền trong quản lý, giám sát kiểm toán độc lập…

Trong tờ trình gửi Chính phủ, Bộ Tài chính đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 16; khoản 3 Điều 18; điểm b khoản 4 Điều 21; khoản 1, khoản 2 Điều 29; Điều 37; khoản 8 Điều 39; khoản 4 Điều 53; khoản 2 Điều 54; Điều 60 của Luật Kiểm toán độc lập. Trong đó, Điều 60 về xử lý vi phạm pháp luật về kiểm toán độc lập, Bộ Tài chính đề xuất hình thức phạt tiền lên mức tối đa là 3 tỷ đồng đối với tổ chức (Luật hiện hành là 100 triệu đồng), 1,5 tỷ đồng đối với cá nhân (Luật hiện hành 50 triệu đồng); Thời hiệu xử lý vi phạm pháp luật về kiểm toán độc lập là 10 năm (thay vì chỉ 1 năm Luật hiện hành).

VŨ LÊ MINH

Link nội dung: https://phaply.net.vn/kinh-nghiem-quan-ly-giam-sat-kiem-toan-doc-lap-tai-mot-so-quoc-gia-va-mot-so-de-xuat-tham-khao-cho-viet-nam-a258697.html