Nâng cao hiệu quả thi hành Luật Đất đai: Chống lãng phí và vi phạm trong sử dụng đất công trong khu vực sự nghiệp công lập và doanh nghiệp nhà nước

(Pháp lý). Đất đai là nguồn lực to lớn cần được phát huy, quản lý và sử dụng có hiệu quả, bền vững, bảo đảm công bằng xã hội; không để bị suy thoái, huỷ hoại, và cần kiên quyết chống lãng phí, tham nhũng, tiêu cực. Để nâng cao hiệu quả thi hành Luất Đất đai trong thời gian tới đòi hỏi sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị, các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên, đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đầy đủ, đúng và thực hiện nghiêm các qui định của Luật Đất đai.

1-1724216911.png

Quốc hội thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai

Luật Đất đai (sửa đổi) được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, kỳ họp bất thường lần thứ năm thông qua ngày 18 tháng 01 năm 2024. Luật gồm 16 chương, 260 điều, trong đó sửa đổi, bổ sung 180/212 điều của Luật Đất đai năm 2013 và bổ sung mới 78 điều. Đây là đạo luật quan trọng, tác động đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường của đất nước; giữ vai trò trung tâm trong hệ thống pháp luật về đất đai, có mối quan hệ với nhiều quy định khác của pháp luật. Luật Đất đai đã thể chế hóa cơ bản các nội dung của Nghị quyết số 18-NQ/TW, thể hiện qua các quy định về đổi mới và nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; hoàn thiện các quy định về giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; hoàn thiện quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng.

Về những điểm mới trong 16 Chương, Luật quy định về chế độ sở hữu đất đai, quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ của công dân, người sử dụng đất đối với đất đai thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quy định về người sử dụng đất được sửa đổi, bổ sung để thống nhất với quy định của Bộ luật Dân sự, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật Quốc tịch, Luật Đầu tư; không phân biệt công dân Việt Nam định cư trong nước hay ở nước ngoài trong tiếp cận đất đai.

Luật cũng kế thừa phân loại đất theo Luật Đất đai 2013, bổ sung đất chăn nuôi tập trung vào nhóm đất nông nghiệp, bổ sung đất công trình cấp nước, thoát nước, đất công trình phòng, chống thiên tai, đất công nghệ thông tin, cơ sở lưu trữ tro cốt, đất chợ đầu mối trong nhóm đất phi nông nghiệp. Luật kế thừa, hoàn thiện các quy định về các nguyên tắc sử dụng đất, bổ sung nguyên tắc bảo vệ đất, thích ứng với biến đổi khí hậu; quy định trách nhiệm của người được Nhà nước giao đất quản lý; bổ sung các quy định khuyến khích việc sử dụng đất đai có hiệu quả, tập trung đất đai để sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp quy mô lớn, phát triển kết cấu hạ tầng để làm tăng giá trị của đất. Bổ sung nghiêm cấm đối với hành vi vi phạm chính sách về đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số; phân biệt đối xử về giới trong quản lý, sử dụng đất đai...

Đặc biệt, Chương VIII về phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất (gồm 4 điều, từ Điều 112 đến Điều 115) là chương mới hoàn toàn so với Luật Đất đai năm 2013. Theo quy định, việc phát triển, quản lý và khai thác quỹ đất phải theo quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất, sử dụng đất đúng mục đích, công khai, minh bạch, hợp lý, hiệu quả và theo quy định của pháp luật; bảo đảm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, hỗ trợ tái định cư, an sinh xã hội, bố trí đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số để thực hiện chính sách đất đai đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Chương này đã quy định cụ thể nguồn hình thành quỹ đất. Tổ chức phát triển quỹ đất được thành lập để tạo lập, phát triển, quản lý, khai thác quỹ đất tại địa phương. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh giao cho tổ chức phát triển quỹ đất quản lý, khai thác quỹ đất quỹ đất này. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất có trách nhiệm phối hợp với tổ chức phát triển quỹ đất quản lý, bảo vệ, chống lấn đất, chiếm đất.

Nhằm xử lý các mâu thuẫn, chồng chéo giữa các luật, tạo sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, Luật Đất đai đã dành 1 mục của Chương 16 để sửa đổi, bổ sung một số điều của 8 luật có các quy định liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai, gồm các Luật: Quy hoạch, Đầu tư, Lâm nghiệp, Thủy sản, Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Thi hành án dân sự, Thuế thu nhập cá nhân, Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.

Để nâng cao hiệu quả thi hành và tạo sự đồng thuận trong xã hội về triển khai thực hiện Luất Đất đai trong thời gian tới đòi hỏi sự vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị, các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên đẩy mạnh tuyên truyền để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đầy đủ và đúng về Luật Đất đai sửa đổi. Những vấn đề cần tập trung làm rõ như: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, nhất là về quyền và nghĩa vụ của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao quyền sử dụng đất; Đất đai là nguồn lực to lớn cần được phát huy, quản lý và sử dụng có hiệu quả, bền vững, bảo đảm công bằng xã hội; không để bị suy thoái, huỷ hoại, lãng phí, tham nhũng, tiêu cực.

2-1724216917.jpg

Đất đai là nguồn lực to lớn cần được phát huy, quản lý và sử dụng có hiệu quả. Cần kiên quyết chống các hành vi lãng phí, tham nhũng, tiêu cực (Ảnh minh hoạ)

Thực trạng quản lý, sử dụng đất thời gian qua, trong đó có đất công của các đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, qua nghiên cứu, tổng hợp cho thấy:

Công tác quản lý, sử dụng đất từng bước được quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, phát huy nguồn lực đất đai vào phát triển sản xuất kinh doanh, góp phần giải quyết hiệu quả tình trạng lãng phí tài nguyên đất đai. Công tác giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đã được các địa phương triển khai thực hiện cơ bản theo đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan có thẩm quyền xét duyệt, cơ bản bảo đảm đúng các quy định của pháp luật về đất đai. Nhiều địa phương đã chú trọng, quyết liệt xử lý thu hồi được nhiều quỹ đất đã giao, cho doanh nghiệp thuê nhưng không thực hiện gây lãng phí hoặc vi phạm trong sử dụng đất đai.

Theo Báo cáo số 330/BC-ĐGS ngày 11/10/2022 của Đoàn giám sát chuyên đề Quốc hội khóa XV “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí giai đoạn 2016-2021” trích dẫn Báo cáo số 1557/BC-TTCP ngày 12/9/2022 của Thanh tra Chính phủ, giai đoạn 2016-2021 đã phát hiện vi phạm 63.200 ha đất, kiến nghị thu hồi 31.287 ha đất; trong đó kết quả thực hiện kết luận thanh tra đã thu hồi về cho nhà nước 3.931 ha trên tổng số 7.727 ha phải thu hồi.

Đạt được kết quả nêu trên là nhờ sự chỉ đạo xuyên suốt, kịp thời của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng; sự giám sát chặt chẽ, có hiệu quả của Quốc hội; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cơ quan Trung ương và cấp ủy, chính quyền các địa phương. Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành đã bám sát, cụ thể hóa các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước trong xây dựng, ban hành các quy định pháp luật. Các giải pháp thực hiện, hô trợ người dân, doanh nghiệp ngày càng thực chất, đi vào chiều sâu. Công tác kiểm tra, giám sát, xử lý các hành vi nhũng nhiêu, tham nhũng, lãng phí, vi phạm pháp luật ngày càng quyết liệt.

Bên cạnh kết quả đạt được, thực tiễn cho thấy rằng, việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng đất một số nơi chưa nghiêm. Hiệu quả khai thác, sử dụng đất một số chỗ chưa cao, còn nhiều tồn tại, bất cập, hạn chế, đã ảnh hưởng rất lớn trong công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong giai đoạn vừa qua, tạo nên những điểm nghẽn, gây lãng phí, thất thoát rất lớn các nguồn lực của quốc gia và toàn xã hội. Các lãng phí, thất thoát này, không chỉ nguồn lực về tài chính, tài sản, thời gian, mà còn mất đi nhiều cơ hội và nguồn lực tổng hợp khác để xây dựng, phát huy các tiềm năng, thế mạnh của đất nước để thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội.

Việc thu hồi các dự án không triển khai thực hiện, chậm tiến độ, vi phạm quy định Luật Đất đai có nơi chưa được quan tâm, chú trọng theo đúng quy định của Luật Đất đai, Luật Đầu tư và nhiều văn bản pháp luật liên quan. Chưa có cơ chế hữu hiệu để xử lý các trường hợp này. Hàng nghìn dự án thuộc đối tượng nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất chậm tiến độ, chậm đưa đất vào sử dụng, nhưng chưa quan tâm xử lý, thu hồi; tình hình thu hồi đất do vi phạm pháp luật về đất đai của cả nước từ khi ban hành Luật đất đai năm 2013 đến nay vẫn còn nhiều.

3-1724216918.jpg

Đất đai là nguồn lực to lớn cần được phát huy, quản lý và sử dụng có hiệu quả. Cần kiên quyết chống các hành vi lãng phí, tham nhũng, tiêu cực (Ảnh minh hoạ)

Việc quản lý, sử dụng đất tại các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư còn nhiều bất cập, sai phạm, cụ thể:

(1) Diện tích, số lượng cơ sở đất mà các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư được giao rất lớn, nhưng chưa được doanh nghiệp và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý chặt chẽ. Nhiều diện tích đất chưa sử dụng, hoặc sử dụng không hiệu quả, sử dụng không đúng mục đích, bị lấn chiếm, tranh chấp, chưa được ký hợp đồng thuê đất hoặc có đầy đủ hồ sơ pháp lý; chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính với NSNN; tính tiền sử dụng đất phải nộp của dự án bất động sản chưa đúng quy định; giao khoán đất cho hộ gia đình, cá nhân chưa đúng quy định; chuyển nhượng dự án hình thành trong tương lai khi chưa được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận;

(2) Nhiều đơn vị có hoạt động chuyển đổi mục đích sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư của một số tập đoàn, tổng công ty không tự triển khai dự án gắn với quyền sử dụng đất mà góp vốn với các đối tác bên ngoài, sau đó thoái vốn hoặc cam kết thoái vốn để chuyển giao đất cho đối tác không thông qua đấu giá. Công tác lựa chọn nhà đầu tư hợp tác, góp vốn hầu hết theo hình thức chỉ định, không có tiêu chí, chào giá công khai, minh bạch nên làm giảm sự cạnh tranh và tiềm ẩn rủi ro trong việc chọn nhà đầu tư không đủ năng lực, kinh nghiệm thực hiện dự án. Việc xác định giá trị lợi thế quyền thuê đất theo phương thức tự thực hiện dựa trên đàm phán, thỏa thuận giữa các bên, một số trường hợp có thuê các đơn vị tư vấn thẩm định giá nhưng chưa có đầy đủ cơ sở về tính hợp lý của định giá nên dễ dẫn đến thất thoát tài sản nhà nước;

(3) Một số đơn vị hợp tác, liên doanh, góp vốn thành lập pháp nhân mới, sau đó chuyển mục đích sử dụng đất cho các đối tượng không thuộc doanh nghiệp nhà nước và không thuộc đối tượng phải di dời do ô nhiễm môi trường nhưng không thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai; góp vốn hoặc chậm thoái vốn trong lĩnh vực bất động sản không đúng quy định tại Nghị quyết số 94/NQ-CP ngày 27/9/2011 của Chính phủ và Chỉ thị số 03/CT-TTg ngày 17/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ; bàn giao đất cho pháp nhân mới khi chưa có quyết định của cấp có thẩm quyền, vi phạm khoản 3 Điều 8 Quyết định số 86/2010/QĐ-TTg; chuyển đổi chủ đầu tư dự án cho nhà đầu tư khác đối với các cơ sở nhà, đất do Trung ương quản lý khi chưa được Bộ Tài chính, Thủ tướng Chính phủ chấp thuận;

(4) Việc quản lý, sử dụng đất trong và sau quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2017 còn nhiều tồn tại, cụ thể: Trước khi cổ phần hóa còn nhiều trường hợp không xây dựng phương án sử dụng đất; xây dựng, phê duyệt phương án không phù hợp với phương án sắp xếp xử lý nhà, đất và quy hoạch sử dụng đất; chưa công khai minh bạch thông tin liên quan đến đất đai. Sau cổ phần hóa còn sử dụng đất không đúng mục đích; để hoang hóa, bị tranh chấp, lấn chiếm; chậm hoàn thiện thủ tục pháp lý; giao đất, cho thuê đất, chuyển đổi mục đích sử dụng đất không qua đấu giá; chuyển đổi mục đích không phù hợp quy hoạch. Một số trường hợp xác định giá trị quyền sử dụng đất sai quy định; việc thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai còn nhiều tồn tại... Nhiều công trình, dự án thuộc diện điều tra, thanh tra, kiểm tra đã qua nhiều năm nhưng đất đai, công trình chưa được đưa vào khai thác sử dụng, gây lãng phí lớn cho doanh nghiệp nói riêng và cho địa phương nơi có công trình, dự án nói chung. Việc phát hiện và xử lý các sai phạm chưa nghiêm, gây thất thoát, lãng phí rất lớn nguồn lực nhà nước. Tỷ lệ thực hiện các kết luận, kiến nghị sau thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhà nước của các Bộ, ngành địa phương đạt thấp. Nhiều vấn đề để kéo dài nhiều năm chưa thực hiện. Trong đó, bên cạnh chậm thực hiện kiến nghị xử lý tài chính, thu hồi đất đai còn tình trạng chậm sửa đổi, khắc phục các vướng mắc, tồn tại của các nội dung quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật hoặc văn bản quản lý do các đơn vị ban hành theo thẩm quyền làm kéo dài tác động của các vướng mắc, điểm nghẽn dẫn đến lãng phí, thất thoát nguồn lực tài chính công, tài sản công. Hệ lụy là nhiều tổ chức, cá nhân đã bị kỷ luật, xử lý hình sự do các hành vi tiêu cực, tham nhũng, lãng phí trong quản lý, sử dụng nguồn lực của đất nước.

Một số ví dụ được các báo cáo, nghiên cứu và báo chí nêu trong thời gian vừa qua:

a) Sai phạm tại khu đất 30.977m2 tại số 152 Trần Phú, phường 4, quận 5, thành phố Hồ Chí Minh: Thanh tra Chính phủ đã kết luận rằng trong hoạt động đầu tư xây dựng, Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba) đã để xảy ra một số sai phạm trong việc thực hiện góp vốn dự án tại 152 Trần Phú. Theo đó Vinataba là DNNN được UBND thành phố Hồ Chí Minh giao lô đất 30.977m2 từ năm 2008 để thực hiện dự án cao ốc văn phòng, trung tâm thương mại dịch vụ. Để thực hiện dự án này, Vinataba đã liên danh cùng Công ty TNHH Đô Thành Việt và Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại Căn nhà mơ ước (DRH Holdings) tạo thành liên doanh mang tên Công ty TNHH Vina Alliance (Vina Alliance). Trong các tài sản của Vinataba đã góp vốn vào Vina Alliance có bao gồm cả lô đất 30.977m2 tại 152 Trần Phú. Đến năm 2017, Vinataba thoái vốn tại Vina Alliance và chuyển vốn góp của mình sang cho Công ty TNHH Sơn Đông. Từ thời điểm này khu đất 30.977m2 tại số 152 Trần Phú chính thức đổi chủ sang doanh nghiệp tư nhân khác.

Kết luận của Thanh tra Chính phủ xác định Vinataba đã vi phạm quy định về quản lý tài sản DNNN do không thực hiện đánh giá lại tài sản. Bên cạnh đó, Vinataba còn làm trái chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, vi phạm pháp luật về chuyển nhượng tài sản doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ khi chuyển nhượng hơn 30.977m2 đất mà không xin phép Thủ tướng Chính phủ và đồng thời không thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất, có nguy cơ thất thoát tiền của Nhà nước, của doanh nghiệp. Đầu năm 2024, UBND thành phố Hồ Chí Minh có quyết định thu hồi hơn 30.977 m2 đất thuộc thửa số 38, tờ bản đồ số 10 (số 152 Trần Phú, phường 4, quận 5). Tuy nhiên đến nay vẫn chưa thu hồi được.

4-1724216918.jpg

Khu "đất vàng" 152 Trần Phú, Quận 5, TPHCM

b) Khu đất 6.080 m2 tại 2-4-6 Hai Bà Trưng, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh: Khu đất này được sắp xếp giao cho Tổng công ty Sabeco (Sabeco) để quản lý, sử dụng, đầu tư, xây dựng khách sạn 6 sao với điều kiện không được thành lập pháp nhân mới. Tuy nhiên, Sabeco vẫn thực hiện liên doanh, liên kết và thành lập Công ty Sabeco Pearl (Sabeco Pearl) trái với quy định. Sau đó, khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng đã được hoàn thành các thủ tục pháp lý và được Sabeco chuyển quyền sử dụng đất sang Sabeco Pearl. Năm 2016, Sabeco thực hiện thoái vốn và đã bán 26% vốn góp (toàn bộ vốn) trong Sabeco Pearl cho chính các cổ đông sáng lập còn lại của Sabeco Pearl. Cuối cùng, khu đất 2-4-6 Hai Bà Trưng chính thức trở thành tài sản của Sabeco Pearl, hiện nay là Công ty cổ phần Đầu tư Quảng trường Mê Linh (Doanh nghiệp 100% vốn tư nhân).

Cơ quan chức năng xác định là khu đất đã bị một số đối tượng lợi dụng làm trái pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, gây thất thoát cho nhà nước 2.713 tỷ đồng. Sau đó, các đối tượng có liên quan đến sai phạm đã bị xử lý theo quy định của pháp luật. Khu đất này sau đó đã bị thu hồi và bàn giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh quản lý.

c) Khu đất công 6.202m2 tại 39 – 39B Bến Vân Đồn, quận 4, thành phố Hồ Chí Minh. Đây cũng là khu đất vàng khiến cựu lãnh đạo ngành cao su vướng lao lý. Trước đó, năm 2021, Thanh tra Chính phủ đã kết luận, khu đất này là đất có nguồn gốc thuộc sở hữu Nhà nước, năm 2010 được UBND thành phố Hồ Chí Minh giao cho Công ty TNHH Phú Việt Tín (Phú Việt Tín) do 2 DNNN là Công ty TNHH MTV Tổng công ty Cao su Đồng Nai và Công ty TNHH MTV Cao su Bà Rịa, thuộc Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam góp vốn thành lập từ năm 2009. Sau đó, 2 DNNN nêu trên thoái vốn khỏi Phú Việt Tín, lúc này khu đất 39 – 39B Bến Vân Đồn chính thức thuộc quyền sử dụng của doanh nghiệp tư nhân (Phú Việt Tín), tiếp đó, khu đất này liên tục được thay chủ sử dụng thông qua các hoạt động mua bán, chuyển nhượng vốn góp trong Phú Việt Tín. Cuối cùng khu đất này đến tay một doanh nghiệp bất động sản và trở thành cao ốc phức hợp với nhiều căn hộ cao cấp, có vị trí đắc địa mà không bị thu hồi.

d) Dự án Trung tâm Dạy nghề và Hỗ trợ việc làm nông dân khu vực Đông Nam bộ (tại thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu) thuộc TW Hội Nông dân Việt Nam làm chủ đầu tư. Dự án có diện tích trên 2,1 ha đã được Tỉnh bàn giao đất cho Chủ đầu tư từ năm 2007 theo hình thức không thu tiền sử dụng đất. Tuy nhiên, đến nay sau 15 năm hiện trạng khu đất có tường rào kiên cố, chưa xây dựng công trình, chưa đưa đất vào sử dụng.

e) Có trường hợp Dự án là công trình theo tuyến, công trình tuy đã hoàn thành theo đúng dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt, nhưng vẫn chưa thể đưa vào khai thác, sử dụng do chưa thể kết nối được với công trình tương ứng như: Dự án đường vành đai 4 trong đó có cầu Xuân Cẩm - Bắc Phú tỉnh Bắc Giang đã hoàn thành 2 năm với chi phí đầu tư trên 1.200 tỷ đồng nhưng bên phía Sóc Sơn, Hà Nội chưa làm đường dẫn lên cầu (kết thúc cầu giữa cánh đồng), không bảo đảm kết nối giữa các địa phương, dẫn đến dự án chưa phát huy được hiệu quả đầu tư, gây lãng phí nguồn lực;...

f) Trường hợp Dự án Cảng Quốc tế Sao biển tại thị xã Phú Mỹ tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Dự án được Tỉnh cấp Giấy CNĐKĐT từ năm 2010, phê duyệt giao cho chủ đầu tư từ năm 2012 với diện tích đất cho thuê trả tiền hằng năm khoảng 68 ha, tổng vốn đầu tư khoảng gần 5.000 tỷ đồng; Chủ đầu tư mới bơm giải phóng mặt bằng 15 ha, đang tiếp tục san lấp mặt bằng trên phần diện tích còn lại, hiện Dự án chưa có hệ thống kết nối với hệ thống hạ tầng khu Cảng Thị Vải - Cái Mép.

*

Nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân khác nhau bao gồm cả nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan. Cơ quan có thẩm quyền quản lý có chỗ còn chưa làm hết trách nhiệm, có sự buông lỏng trong quản lý, thực hiện không đúng các quy định pháp luật khi giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất (không thông qua đấu thầu, đấu giá); việc phát hiện và xử lý các sai phạm chưa nghiêm.

5-1724216918.png

Các đề xuất, kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác quản lý, sử dụng đất khu vực công trong thời gian tới 

1. Đẩy mạnh tuyên truyền

2. Đề nghị Quốc hội tiếp tục tăng cường công tác giám sát các nội dung liên quan đến việc thực hiện chính sách, pháp luật về Quản lý, xử lý các dự án treo, vi phạm các quy định về pháp luật đất đai, đầu tư nhất là khu vực nhà đất công.

3. Đề nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cơ quan hữu quan hoàn thành việc rà soát, thống kê, tổng hợp đầy đủ các thông tin, số liệu, danh mục dự án vi phạm pháp luật về đất đai từ đó có các giải pháp xử lý, khắc phục thất thoát, lãng phí trong quản lý, sử dụng đất đai.

Đặc biệt tổng hợp đầy đủ các trường hợp vi phạm liên quan đến quản lý, sử dụng đất, việc xử lý, thu hồi đất đai các dự án này để sớm đưa đất đai vào sử dụng, phát huy hiệu quả, không gây thất thoát, lãng phí.... góp phần phát triển kinh tế.

Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, các quy định liên quan đến quản lý, sử dụng đất đai, trong đó đề nghị nâng mức xử phạt hành chính ở mức cao hơn để hạn chế các hành vi vi phạm trong quản lý, sử dụng đất.

Tăng cường công tác quản lý, khai thác, sử dụng đất. Nâng cao vai trò, trách nhiệm và ý thức chấp hành pháp luật về đất đai của một bộ phận cán bộ, công chức. Kịp thời khắc phục các tồn tại, hạn chế trong quản lý, khai thác, sử dụng đất, bảo đảm khai thác tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, giảm thiểu thất thoát, lãng phí nguồn tài nguyên và nguồn lực nhà nước. Có chế tài xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ, công chức để xảy ra sai phạm trong quản lý, sử dụng đất.

Xử lý nghiêm trách nhiệm các tổ chức, cá nhân để xảy ra các vi phạm, sai phạm về đất đai. Chậm thực hiện các kiến nghị của thanh tra, KTNN không kịp thời thu hồi vốn, tài sản nhà nước.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực đất đai; đồng thời đôn đốc việc thực hiện nghiêm túc các kết luận, kiến nghị thanh kiểm tra.

Ban Nghiên cứu, Xây dựng &PBPL (Hội Luật gia VN)

Link nội dung: https://phaply.net.vn/nang-cao-hieu-qua-thi-hanh-luat-dat-dai-chong-lang-phi-va-vi-pham-trong-su-dung-dat-cong-trong-khu-vuc-su-nghiep-cong-lap-va-doanh-nghiep-nha-nuoc-a258559.html