Các Đại biểu Quốc hội nghiên cứu về dự án Luật Địa chất và khoáng sản
Sự cần thiết ban hành Luật Địa chất và khoáng sản
Báo cáo trước Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh cho biết: Sau 13 năm thi hành Luật Khoáng sản năm 2010, hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản cơ bản đầy đủ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về khoáng sản; đẩy mạnh điều tra địa chất về khoáng sản và công nghiệp khai khoáng; quản lý khoáng sản ngày càng chặt chẽ, hiệu quả hơn. Nhiều chính sách quan trọng vẫn còn nguyên giá trị và được tiếp tục kế thừa. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi Luật vẫn còn một số tồn tại, hạn chế :
Thứ nhất, Luật Khoáng sản chưa quy định quản lý nhà nước về địa chất, nhất là quản lý thống nhất theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên ngành; đặc biệt chưa thống nhất quản lý thông tin, dữ liệu địa chất như Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 10/02/2022 của Bộ Chính trị đã nêu.
Thứ hai, thủ tục hành chính cấp phép về khoáng sản làm vật liệu san lấp còn phức tạp; chưa phân loại các đối tượng khoáng sản để áp dụng thủ tục hành chính tương ứng, phù hợp (thủ tục của mỏ đất san lấp phải thực hiện như một mỏ vàng).
Thứ ba, việc thu tiền cấp quyền khai thác theo trữ lượng khoáng sản còn gặp nhiều bất cập như: Tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo trữ lượng khoáng sản được phê duyệt chưa đảm bảo tính chính xác; Thu tiền cấp quyền khai thác trước khi tiến hành khai thác không tạo điều kiện cho Doanh nghiệp đầu tư xây dựng cơ bản mỏ; Trường hợp khai thác không đủ trữ lượng được cấp phép hiện chưa có quy định việc hoàn trả tiền cấp quyền.
Theo Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh, dự án Luật được xây dựng gồm 117 điều và được bố cục thành 12 chương, tăng 01 chương và 31 điều (so với Luật Khoáng sản năm 2010), tăng 01 chương và giảm 19 điều (so với Đề cương đã được thông qua). Một số điểm mới của dự thảo Luật gồm: Quy định về điều tra cơ bản địa chất (Chương III); Phân nhóm khoáng sản (Điều 7 và Chương VI); Tăng cường phân công, phân cấp cho chính quyền địa phương (chi tiết thể hiện tại mục V); Bổ sung và làm rõ các hoạt động thu hồi khoáng sản, đăng ký khai thác khoáng sản nhóm IV không phải cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản; Bổ sung các trường hợp đặc thù cho phép khai thác khoáng sản không phải có Quy hoạch khoáng sản (khai thác khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ, thu hồi khoáng sản, khai thác tận thu khoáng sản); Khai thác nước khoáng, nước nóng thiên nhiên, khai thác khoáng sản lòng sông, lòng hồ, ở khu vực biển không phải lập Đề án đóng cửa mỏ khoáng sản nhưng phải thực hiện Phương án đóng cửa mỏ khoáng sản; Công nhận kết quả thăm dò khoáng sản thay vì phê duyệt trữ lượng (Điều 53).
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình về dự án Luật Địa chất và khoáng sản
Ngoài ra, trong dự án Luật cũng đề cập điểm mới về sử dụng vốn ngân sách từ nguồn sự nghiệp kinh tế để tổ chức thực hiện thăm dò khoáng sản chiến lược, quan trọng; khoáng sản có giá trị kinh tế và nhu cầu sử dụng lớn (Điều 52); Tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được xác định trên cơ sở trữ lượng khoáng sản được quy định trong giấy phép khai thác khoáng sản hoặc khối lượng khoáng sản được phép khai thác, thu hồi; tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thu theo năm và quyết toán theo sản lượng khai thác thực tế (Điều 103); Tăng cường quản lý cát, sỏi lòng sông, lòng hồ, khu vực biển (Chương VIII); Cho phép tổ chức, cá nhân thế chấp, góp vốn quyền khai thác khoáng sản (Điều 62); Ưu tiên tổ chức, cá nhân đang khai thác hợp pháp được thăm dò xuống sâu, mở rộng để đánh giá đầy đủ, khống chế hết thân khoáng sản đối với loại khoáng sản được cấp phép mà không phải đấu giá quyền khai thác khoáng sản (Điều 5).
Tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Địa chất và khoáng sản, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng hồ sơ dự án Luật cơ bản đáp ứng yêu cầu theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đã cụ thể hoá 5 nhóm chính sách được thông qua; đủ điều kiện để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 7.
Dự thảo Luật có các quy định mới như quy định về điều tra cơ bản địa chất; phân nhóm khoáng sản; tăng cường phân công, phân cấp cho chính quyền địa phương; bổ sung và làm rõ các hoạt động thu hồi khoáng sản, đăng ký khai thác khoáng sản nhóm IV không phải cấp giấy phép thăm dò, khai thác khoáng sản; bổ sung các trường hợp đặc thù cho phép khai thác khoáng sản không phải có Quy hoạch khoáng sản (khai thác khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ; thu hồi khoáng sản; khai thác tận thu khoáng sản); công nhận kết quả thăm dò khoáng sản thay vì phê duyệt trữ lượng; sử dụng vốn ngân sách từ nguồn sự nghiệp kinh tế để tổ chức thực hiện thăm dò khoáng sản chiến lược, quan trọng;...
Dự thảo Luật quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được xác định trên cơ sở trữ lượng khoáng sản được quy định trong giấy phép khai thác khoáng sản hoặc khối lượng khoáng sản được phép khai thác, thu hồi; tiền cấp quyền khai thác khoáng sản được thu theo năm và quyết toán theo sản lượng khai thác thực tế; tăng cường quản lý cát, sỏi lòng sông, lòng hồ, khu vực biển; cho phép tổ chức, cá nhân thế chấp, góp vốn quyền khai thác khoáng sản; ưu tiên tổ chức, cá nhân đang khai thác hợp pháp được thăm dò xuống sâu, mở rộng để đánh giá đầy đủ, khống chế hết thân khoáng sản đối với loại khoáng sản được cấp phép mà không phải đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
Nhiều nội dung và qui định của dự luật cần tiếp tục nghiên cứu bổ sung làm rõ
Chiều 20/6/2024, thay mặt cơ quan thẩm tra dự án Luật ĐC&KS, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) Lê Quang Huy nhấn mạnh: Ủy ban cơ bản tán thành với sự cần thiết ban hành Luật ĐC&KS với những lý do nêu trong Tờ trình của Chính phủ. Hồ sơ dự án Luật cơ bản đáp ứng yêu cầu theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến. Đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát đối chiếu dự thảo Luật với Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Đầu tư, Luật Quy hoạch, Luật Đất đai, Luật Đấu thầu, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Thuế tài nguyên; đối chiếu với các dự thảo luật khác đang trình Quốc hội như dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản.
Đa số ý kiến Ủy ban KH,CN&MT nhất trí với tên gọi Luật ĐC&KS và tên gọi này phù hợp với Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024. Tuy nhiên, để bảo đảm cân đối thành tố “địa chất” và “khoáng sản”, Ủy ban KH,CN&MT đề nghị tiếp tục rà soát, bổ sung các quy định về lĩnh vực địa chất trong dự thảo Luật. Một số ý kiến đề nghị đổi tên Luật thành Luật Tài nguyên địa chất hoặc Luật Địa chất để bao quát hơn.
Ủy ban KH,CN&MT nhất trí với phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật, việc kinh doanh chế biến khoáng sản độc lập không gắn với khai thác khoáng sản không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này. Tuy nhiên, đề nghị rà soát tránh khoảng trống pháp lý, ảnh hưởng đến việc hoạch định chính sách phát triển ngành công nghiệp chế biến khoáng sản; nghiên cứu, bổ sung nội dung liên quan đến chế biến, sử dụng khoáng sản tại các quy định về chính sách của nhà nước đối với địa chất, khoáng sản; chiến lược địa chất, khoáng sản và công nghiệp khai khoáng; chế biến khoáng sản.
Có ý kiến đề nghị làm rõ các nội dung về công nghiệp khai khoáng có thuộc phạm vi điều chỉnh của dự án Luật hay không; tiếp tục rà soát, bổ sung một số quy định liên quan đến công nghiệp khai khoáng trong dự thảo Luật.
Về phân nhóm khoáng sản (Điều 7): Ủy ban KH,CN&MT cơ bản thống nhất với quy định phân 04 nhóm khoáng sản như dự thảo Luật, trong đó tách riêng nhóm khoáng sản là vật liệu xây dựng thông thường (nhóm III) và khoáng sản làm vật liệu san lấp (nhóm IV). Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng một số loại khoáng sản có thể sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau và phụ thuộc vào trình độ công nghệ ở thời điểm điều tra, thăm dò, khai thác, sử dụng nên khó xác định thuộc nhóm khoáng sản nào, gây chồng chéo thẩm quyền quy hoạch khoáng sản, có thể dẫn đến lãng phí tài nguyên hoặc ảnh hưởng đến vấn đề dự trữ tài nguyên quốc gia. Có ý kiến đề nghị quy định cụ thể hơn các loại khoáng sản nhóm IV và làm rõ nội hàm khoáng sản “chỉ phù hợp với mục đích làm vật liệu san lấp” (điểm d khoản 1) để đơn giản hóa thủ tục khai thác cát sông, cát biển làm vật liệu san lấp. Một số ý kiến đề nghị quy định rõ việc phân nhóm khoáng sản để áp dụng quản lý trong trường hợp mỏ có nhiều loại khoáng sản khác nhau; tiêu chí phân nhóm khoáng sản gắn với tiềm lực vị thế quốc gia, khoáng sản chiến lược gắn với quốc phòng, an ninh như đất hiếm, urani…
Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT Lê Quang Huy đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu giải trình, tiếp thu các ý kiến nêu trên, tránh khoảng trống pháp lý dẫn đến sai phạm, thất thoát, lãng phí. Ngoài ra, quy định phân nhóm khoáng sản cần lưu ý các vấn đề liên quan đến một số khoáng sản như than, quặng phóng xạ, titan, bauxit và mối quan hệ giữa than, dầu và khí, đá phiến.
Về quyền lợi, trách nhiệm của địa phương, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân nơi có tài nguyên địa chất, khoáng sản được khai thác (Điều 9): Theo quy định tại điểm a khoản 1, địa phương nơi khai thác khoáng sản được Nhà nước điều tiết khoản thu từ hoạt động khai thác khoáng sản để hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của pháp luật về ngân sách Nhà nước. Có ý kiến cho rằng cần bổ sung quy định ngay trong dự thảo Luật hoặc giao Chính phủ quy định chi tiết việc điều tiết khoản thu từ hoạt động khai thác khoáng sản; điều tiết khoản thu trong trường hợp khoáng sản nằm trên địa bàn của nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, bổ sung vai trò của tổ chức cộng đồng dân cư tại khu vực khai thác khoáng sản. Đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu, tiếp thu hoàn thiện các nội dung này.
Về quy hoạch khoáng sản (Điều 13): Khoản 1 quy định quy hoạch khoáng sản gồm Quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm I và Quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm II. Đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo đánh giá kỹ tác động của quy định mới này đối với công tác quản lý nhà nước. Đồng thời, giải trình rõ hơn cơ sở xác định các loại quy hoạch khoáng sản, nội dung quy hoạch có bao gồm “chế biến và sử dụng” khoáng sản hay không; làm rõ lý do bỏ quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng quặng phóng xạ.
Có ý kiến đề nghị gộp 02 loại quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản (nhóm I và nhóm II) như dự thảo Luật vào 01 quy hoạch là “Quy hoạch thăm dò, khai thác khoáng sản nhóm I, II” do Bộ TN&MT lập. Khoản 2 quy định phương án quản lý về ĐC&KS nhưng phương án này chưa có trong nội dung quy hoạch tỉnh (Điều 27 Luật Quy hoạch), đề nghị rà soát, bảo đảm tính thống nhất của pháp luật về quy hoạch.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Địa chất và khoáng sản
Về trách nhiệm lập quy hoạch khoáng sản (Điều 15): Vấn đề này, có 02 loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất tán thành với quan điểm của Chính phủ như quy định của dự thảo Luật vì: (i) quy định này thể chế hóa nội dung “thực hiện thống nhất quản lý nhà nước về địa chất, khoáng sản” nêu tại Nghị quyết số 10-NQ/TW; đồng bộ trách nhiệm của Bộ TN&MT trong quản lý quy hoạch, cấp phép, kiểm tra, thanh tra hoạt động khoáng sản; (ii) việc phân công cho nhiều Bộ chủ trì lập các quy hoạch khoáng sản gây ra một số bất cập, không bảo đảm tính thống nhất trong quy hoạch và cấp phép hoạt động khoáng sản.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định theo hướng giao Bộ Công Thương tổ chức lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản nhóm I; Bộ Xây dựng tổ chức lập, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản nhóm II vì: quy định này tương tự như quy định của Luật Khoáng sản hiện hành là phù hợp; bảo đảm sự phân công, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các cơ quan; hạn chế tình trạng cục bộ, khép kín, tăng tính minh bạch, khách quan trong quản lý nhà nước về khoáng sản; phát huy được tối đa năng lực, tổ chức của các cơ quan quản lý.
Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT Lê Quang Huy cho biết, Ủy ban đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu kỹ lưỡng để có phương án phù hợp, vừa đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết số 10-NQ/TW, vừa bảo đảm tính hiệu quả, khả thi; cần phân tích, đánh giá tác động toàn diện, đầy đủ, báo cáo Quốc hội về ưu điểm, hạn chế của từng phương án và nêu rõ các điều kiện cần thiết để tổ chức thực hiện theo phương án được lựa chọn. Kết quả lấy Phiếu xin ý kiến thành viên Ủy ban KH,CN&MT về nội dung trên cho thấy: 37,2% đồng ý loại ý kiến thứ nhất; 58,1% đồng ý loại ý kiến thứ hai; 4,7% có ý kiến khác.
Về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (Điều 102): Vấn đề này, có 02 loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất tán thành quan điểm của Chính phủ quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản như dự thảo Luật vì: khoáng sản là tài nguyên thiên nhiên không tái tạo, là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu, vì vậy, nhà đầu tư phải trả một khoản tiền để được thực hiện quyền khai thác; cơ sở pháp lý của việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên, thu thuế tài nguyên được quy định tại khoản 1 và 2 Điều 121 Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, khoản 2 Điều 3 Luật Quản lý thuế; Luật Tài nguyên nước cũng quy định về hai khoản thu này đối với tài nguyên nước; tiền cấp quyền khai thác đã được quy định tại Điều 77 Luật Khoáng sản hiện hành và trong thời gian qua, NSNN đã thu được số tiền lớn.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị bỏ quy định về tiền cấp quyền khai thác khoáng sản vì: Việc nộp cả tiền cấp quyền và thuế tài nguyên đang được xem là gánh nặng tài chính cho doanh nghiệp khoáng sản. Tất cả nghĩa vụ tài chính nên được thể hiện trong khoản thuế mà doanh nghiệp khoáng sản phải nộp, có thể tăng thuế tài nguyên để bù đắp nguồn thu NSNN do không thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Kết quả lấy Phiếu xin ý kiến về nội dung trên cho thấy: Đa số ý kiến thành viên Ủy ban KH,CN&MT (88,4%) tán thành loại ý kiến thứ nhất. Đồng thời, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo báo cáo Quốc hội về kinh nghiệm quốc tế đối với nội dung tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản và tổng kết tình hình thực hiện tiền cấp quyền khai thác các loại tài nguyên trong thời gian qua.
Về phương pháp xác định, phương thức thu, nộp tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (Điều 103): Đối với vấn đề này, có 02 loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, quy định tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo trữ lượng khoáng sản và được thu theo năm, quyết toán theo sản lượng khai thác thực tế như quan điểm của Chính phủ tại dự thảo Luật là phù hợp vì: Tiền cấp quyền nộp theo năm sẽ giúp doanh nghiệp không mất khoản chi phí lớn tại thời điểm bắt đầu triển khai dự án. Việc quyết toán tiền cấp quyền theo sản lượng thực tế sẽ giải quyết vấn đề chênh lệch giữa trữ lượng thăm dò với sản lượng thực tế. Nếu tính tiền cấp quyền chỉ căn cứ trên cơ sở sản lượng thực tế thì có thể trùng với thuế tài nguyên.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị quy định tính tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo sản lượng khai thác thực tế vì: Việc tính tiền theo trữ lượng khoáng sản không bảo đảm chính xác, có thể rủi ro cho tổ chức, cá nhân; có trường hợp doanh nghiệp được cấp giấy phép, đã nộp tiền cấp quyền khai thác theo trữ lượng nhưng chưa thể khai thác do vướng mắc về giải phóng mặt bằng; doanh nghiệp gặp khó khăn khi rất cần kinh phí đầu tư xây dựng cơ bản mỏ nhưng đã phải nộp tiền cấp quyền lớn theo trữ lượng khi chưa phát sinh doanh thu.
Kết quả lấy Phiếu xin ý kiến thành viên Ủy ban KH,CN&MT về nội dung trên cho thấy: 53,5% đồng ý loại ý kiến thứ nhất; 39,5% đồng ý loại ý kiến thứ hai; 4,7% có ý kiến khác; 2,3% không chọn phương án nào. Có ý kiến đề nghị đối với thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản theo trữ lượng nên thu tiền cấp quyền theo đợt (2-3 đợt) thay cho việc thu theo năm, không nên quyết toán theo thực tế vì không phù hợp với bản chất; có ý kiến đề nghị nghiên cứu có phương án đảm bảo sự công bằng giữa phương án thu, nộp đối với mỏ đấu giá và không đấu giá.
Ngoài ra, theo Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT Lê Quang Huy, Ủy ban đề nghị nghiên cứu, bổ sung căn cứ tính tiền cấp quyền khai thác đối với tài nguyên mới hoặc khoáng sản đa kim chưa quy định về giá tính thuế tài nguyên; quy định rõ quyết toán theo năm hay cuối chu kỳ khai thác mỏ, phương thức thu, quyết toán.
Kiến nghị mở rộng đấu giá, đấu thầu dự án khoáng sản, tăng cường chống tiêu cực, tham nhũng trong khai thác khoáng sản
Vừa qua đã có nhiều hội nghị, hội thảo góp ý về dự án luật Địa chất và khoáng sản, trong đó nổi lên các vấn đề nóng được nhiều đại biểu góp ý và còn ý kiến khác nhau như phạm vi điều chỉnh đối với quản lý hoạt động chế biến khoáng sản; phân cấp, phân quyền quản lý khoáng sản; thu tiền cấp quyền và đấu giá mỏ khoáng sản để cấp phép nhằm khai thác có hiệu quả tài nguyên khoáng sản của đất nước; xóa bỏ cơ chế "xin - cho", chống tiêu cực, tham nhũng trong quản lý, khai thác khoáng sản…..
- Kiến nghị Mỏ khoáng sản phải qua đấu giá, đấu thầu:
Theo Bộ TN-MT , 10 năm triển khai luật Khoáng sản 2010 chỉ tổ chức đấu giá thành công 10 khu vực có khoáng sản, trong tổng số 441 giấy phép đã cấp, như vậy vẫn còn hơn 98% giấy phép được cấp theo cơ chế "xin - cho". Ở các địa phương, số giấy phép khoáng sản được cấp qua đấu giá chỉ có 827/5.200 giấy phép được cấp (chiếm 16%). Trong khi đó, giá trúng đấu giá luôn cao hơn 20 - 40% giá khởi điểm, đặc biệt có những mỏ cao gấp 2 - 3 so với giá khởi điểm.
Luật sư Lê Thanh Sơn, Trưởng văn phòng luật sư AIC (Hà Nội), cho biết theo quy định pháp luật hiện hành, tiền cấp quyền KTKS là cơ sở để xác định giá khởi điểm. Nếu tiếp tục áp dụng khung giá cố định tại Thông tư 05/2020/TT-BTC mức giá khởi điểm hiện nay rất thấp, không bám sát được thực tiễn thị trường. "Nếu theo thông tư này, giá 1 tấn quặng bauxite của VN chỉ có 15,47 USD, trong khi ở Mỹ là 48 USD/tấn, Trung Quốc là 69 USD/tấn, Đức là 50 USD/tấn, Brazil là 56 USD/tấn. Do tiền cấp quyền KTKS được xác định thấp thì giá khởi điểm đấu giá sẽ thấp và có thể dẫn đến giá trúng đấu giá thấp", luật sư Sơn nói.
Luật sư Lê Thanh Sơn cũng cho rằng quy định khu vực đấu giá, không đấu giá trong dự thảo luật gần như không có sự thay đổi với luật Khoáng sản 2010. Đây là sự kế thừa các quy định tại điều 22 Nghị định 158/2016/NĐ-CP và nâng lên thành luật có thể dẫn tới việc sửa đổi các quy định khu vực đấu giá, không đấu giá mất nhiều thời gian, có thể từ 5 - 10 năm. Điều này vô hình trung đang "bảo vệ" sự tồn tại cơ chế xin - cho trong quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản.
"Các quy định của pháp luật cần phải áp dụng tối đa các cơ chế thị trường như đấu giá, đấu thầu để hạn chế tới mức tối thiểu tình trạng "xin - cho" quyền KTKS. Chúng tôi kiến nghị luật cần quy định tất cả các quyền KTKS phải được cấp thông qua đấu giá quyền KTKS hoặc đấu thầu dự án khoáng sản, trừ những khu vực chứa khoáng sản năng lượng phóng xạ, hạt nhân, khu vực vành đai biên giới, khu vực chiến lược về an ninh, quốc phòng", luật sư Sơn nói.
Trả lời chất vấn tại Quốc hội (QH) mới đây, Bộ trưởng Bộ TN-MT Đặng Quốc Khánh khẳng định, dự thảo luật Địa chất và Khoáng sản trình QH trong vài ngày tới đây sẽ khắc phục các bất cập đã được nhận diện sau 13 năm thực hiện luật Khoáng sản 2010. Theo lời người đứng đầu ngành TN-MT nói trước QH, quan điểm là thực hiện đấu giá tối đa để thu ngân sách.
Kiến nghị đấu giá, đấu thầu dự án khoáng sản như với đất đai ( ảnh minh hoạ)
Cả cơ quan quản lý lẫn các chuyên gia đều thống nhất phải mở rộng tối đa đấu giá quyền khai thác khoáng sản, hạn chế cấp phép kiểu xin - cho, song hiện thực hóa cơ chế này ra sao lại là vấn đề không đơn giản, cần làm rõ, đặc biệt cần xoá bỏ cơ chế xin - cho trong cấp phép khai thác mỏ, vốn tiềm ẩn nguy cơ thất thoát hàng tỉ USD cho ngân sách.
Luật Khoáng sản 2010 quy định phải thực hiện đấu giá quyền khai thác khoáng sản, trừ các trường hợp không đấu giá theo quy định của Chính phủ. Theo báo cáo của Bộ TN-MT, Nghị định 158 năm 2016 của Chính phủ đã xác định 7 tiêu chí để khoanh định khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản. Trên cơ sở quy định này, Bộ TN-MT đã khoanh định, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 203 năm 2014 phê duyệt khu vực không đấu giá khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ TN-MT (chưa gồm của địa phương).
Theo đó, khu vực không đấu giá gồm: 151 khu vực khoáng sản cụ thể; khu vực khoáng sản urani đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương; khu vực than nằm trong quy hoạch phát triển ngành than đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; và khu vực đá vôi, đá sét, khoáng sản phụ gia xi măng nằm trong quy hoạch thăm dò, khai thác và sử dụng khoáng sản làm nguyên liệu xi măng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; khu vực khoáng sản đã được cấp giấy phép thăm dò hoặc giấy phép khai thác khoáng sản. Ngoài ra, căn cứ đề xuất của các địa phương, Bộ TN-MT đã khoanh định, trình Thủ tướng Chính phủ bổ sung 53 khu vực khoáng sản vào danh mục khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền cấp phép của Bộ TN-MT.
Đối chiếu các quy định này vào thực tiễn, ông Nguyễn Minh Đức, chuyên gia chính sách công, Ban Pháp chế, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI), tính toán: Có tới hơn 90% số mỏ khoáng sản không qua đấu giá, tức là chỉ cấp phép. Ông Đức cho rằng đây là một trong các nguyên nhân khiến tỷ lệ đấu giá khai thác khoáng sản suốt 14 năm thực hiện luật Khoáng sản còn thấp. Bộ trưởng TN-MT Đặng Quốc Khánh khi trả lời QH cũng thừa nhận, việc bộ này chỉ đấu giá 10 mỏ khoáng sản trong suốt hơn 10 năm là do Nghị định 158/2016 đã quy định rõ các khu vực không đấu giá, và Bộ TN-MT phải thực hiện cấp phép không thông qua đấu giá.
Luật sư Lê Thanh Sơn, Trưởng văn phòng luật sư AIC (Hà Nội), cho rằng quy định nêu trên gần như không có sự thay đổi so với những gì đã được quy định tại Nghị định 158 năm 2016. Khi nâng lên thành luật có thể dẫn tới việc sửa đổi các quy định không đấu giá mất nhiều thời gian, có thể từ 5 - 10 năm. Điều này, theo ông Sơn, vô hình trung đang "bảo vệ" cơ chế xin - cho trong quản lý nhà nước về hoạt động khoáng sản.
- Kiến nghị Đấu giá, đấu thầu dự án khoáng sản như với đất đai
Khi không còn giao toàn bộ việc quy định tiêu chí khu vực khoáng sản không đấu giá cho Chính phủ (mà thực tế là các bộ, ngành) mà quy định thẳng vào luật để QH quyết định. Đây là một bước tiến, mở ra cơ hội để mở rộng việc đấu giá khai thác khoáng sản, hạn chế cơ chế xin - cho trong hoạt động khoáng sản theo định hướng đã được Nghị quyết 10 năm 2022 của Bộ Chính trị (định hướng chiến lược địa chất, khoáng sản, công nghiệp khai khoáng đến cuối năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045) xác định.
Tại dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản trình ra QH, Chính phủ đề xuất quy định cụ thể tiêu chí khu vực không đấu giá vào luật, thay vì để ở nghị định của Chính phủ. Theo đó, dự thảo luật quy định 3 tiêu chí của khu vực không đấu giá, gồm: khoáng sản năng lượng, khoáng sản phóng xạ đã được xác định trong chiến lược, quy hoạch phát triển ngành quốc gia; khoáng sản được quy hoạch là nguồn nguyên liệu cho các dự án chế biến ra sản phẩm công nghiệp theo quy hoạch khoáng sản; khu vực khoáng sản thuộc vành đai biên giới quốc gia, khu vực chiến lược về quốc phòng, an ninh.
Từ đó, nhiều chuyên gia cho rằng vấn đề mấu chốt nằm ở chỗ, quy định tại dự thảo luật Địa chất và Khoáng sản có thực hiện được mục tiêu nói trên hay không. Đại biểu Trần Hữu Hậu (đoàn Tây Ninh), người đã chất vấn Bộ trưởng TN-MT về vấn đề này, khẳng định mở rộng đấu giá quyền khai thác khoáng sản là một trong những giải pháp quan trọng để giảm bớt tiêu cực, nhũng nhiễu; tăng hiệu quả trong khai thác, sử dụng khoáng sản; tăng thu cho ngân sách.
Tuy nhiên, ông Hậu góp ý, quy định tiêu chí của khu vực không đấu giá theo loại khoáng sản như dự thảo nói trên là quá rộng, dẫn đến thu hẹp diện đấu giá. Ông đề xuất nên quy định theo mục đích sử dụng. "Chẳng hạn như khoáng sản năng lượng là than. Nếu khu vực khoáng sản than thuộc dự án kêu gọi đầu tư nhà máy nhiệt điện thì không đấu giá riêng mà sẽ cấp phép để chủ đầu tư nhà máy nhiệt điện khai thác làm nhiên liệu cho nhà máy. Nếu khu vực khoáng sản than được khai thác để bán, xuất khẩu… thì phải thông qua đấu giá", ông Hậu phân tích.
Không chỉ quy định khu vực khoáng sản không đấu giá "quá rộng", dự thảo luật Địa chất và Khoáng sản cũng đề xuất thêm "các trường hợp khác" do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Theo các chuyên gia, việc tiếp tục giao thẩm quyền đề xuất đưa một khu vực khoáng sản vào khu vực không đấu giá hoặc ra khỏi khu vực không đấu giá cho Chính phủ (mà thực tế là Bộ TN-MT) như thời gian qua có thể sẽ tạo ra khe hở để nhiều doanh nghiệp lách luật, gây thất thu cho nhà nước...
Cùng quan điểm, ông Lê Thanh Sơn cho rằng nhà nước có thể định hướng bằng việc áp dụng cơ chế đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án khai thác và chế biến khoáng sản. Từ đó, ông Sơn kiến nghị có hẳn một chương riêng về đấu giá khai thác khoáng sản và đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án khai thác, chế biến khoáng sản để thu hút các nhà đầu tư, tăng nguồn thu cho ngân sách.
Nói về cơ chế đấu giá khoáng sản tại hội thảo góp ý dự thảo luật Địa chất và Khoáng sản 2024 do VCCI phối hợp Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của QH tổ chức chiều 14.6, Thứ trưởng Bộ TN-MT Trần Quý Kiên cho biết VN là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế.
Theo ông Kiên, nhà nước đã đầu tư rất lớn và hàng chục, hàng trăm ngàn cán bộ công nhân viên đang hoạt động trong khu vực này. Chính vì vậy, để đảm bảo, nhà nước có chính sách dành diện tích những khu vực khoáng sản nhất định để đảm bảo ổn định của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước này. "Chúng tôi cũng xin tiếp thu để đảm bảo làm sao phạm vi khu vực không qua đấu giá là hẹp nhất, tạo công bằng cho mọi tổ chức, cá nhân khi tham gia đấu giá", ông Kiên nói.
ĐBQH: Cần nghiên cứu bổ sung vào dự luật làm rõ nội dung đấu thầu, đấu giá quyền khai thác khoáng sản
Cho ý kiến vào dự án Luật Địa chất và Khoáng sản trong phiên họp tổ ngày 20/6, đại biểu Tạ Đình Thi, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội đã phân tích, làm rõ thêm về nội dung đấu thầu và đấu giá quyền khai thác khoáng sản.
Theo Đại biểu, cả hai phương thức đấu thầu dự án khai thác khoáng sản để lựa chọn nhà đầu tư và đấu giá quyền khai thác khoáng sản đều có cùng mục đích lựa chọn nhà đầu tư có năng lực nhất, nhưng mỗi phương thức lại có thêm các mục đích cụ thể khác nhau. Cụ thể, đối với phương thức đấu giá quyền khai thác khoáng sản có mục đích lựa chọn nhà đầu tư trả giá cao nhất, nói cách khác là “bán” được quyền khai thác khoáng sản với giá cao nhất để thu ngân sách nhà nước. Còn với phương thức đấu thầu dự án khai thác khoáng sản để lựa chọn nhà đầu tư, lại có mục đích lựa chọn dự án đầu tư có chất lượng tốt nhất, mang lại có hiệu quả kinh tế - xã hội lớn nhất và lựa chọn nhà đầu tư có năng lực nhất, trước hết là phải có năng lực tài chính, có phương án, giải pháp, tiến độ hợp lý, có tính khả thi nhất trong số các nhà đầu tư dự thầu.
Đại biểu Tạ Đình Thi, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội
Cũng theo Đại biểu, hiện trong dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản tiếp tục kế thừa nội dung Luật Khoáng sản năm 2010 chỉ quy định hình thức đấu giá quyền khai thác khoáng sản và cấp phép thăm dò và cấp phép khai thác khoáng sản. Do vậy, Đại biểu Tạ Đình Thi đề nghị cần có đánh giá tác động kỹ lưỡng vấn đề này để nghiên cứu, bổ sung vào dự án Luật nội dung về đấu thầu dự án khai thác khoáng sản để lựa chọn nhà đầu tư và chỉnh lý các nội dung liên quan về đấu giá quyền khai thác khoáng sản để bảo đảm thực hiện công bằng đối với các nhà đầu tư, mang lại hiệu quả kinh tế cho nhà nước, người dân và doanh nghiệp, địa phương, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Để làm rõ hơn những vấn đề trên, đại biểu Tạ Đình Thi cho rằng, cần chỉnh lý một số nội dung cụ thể, như Điều 106 dự thảo Luật về giá khởi điểm trong đấu giá quyền khai thác khoáng sản, cho phù hợp với Điều 4 Nghị định số 22/2012/NĐ-CP của Chính phủ quy định về đấu giá quyền khai thác khoáng sản quy định, nghiên cứu bổ sung mức tham chiếu làm cơ sở cho giá khởi điểm đó là tham khảo giá khởi điểm của khoáng sản tương ứng trong khu vực; chỉnh lý nội dung quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản tại Điều 62 dự thảo Luật để bảo đảm thực hiện công bằng nghĩa vụ đối với các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khắc phục tình trạng doanh nghiệp nhà nước được cấp phép thăm dò, đã được phê duyệt trữ lượng nhưng sau đó không khai thác như nhiều Đại biểu Quốc hội đã có ý kiến khi chất vấn Bộ trưởng Bộ Tài nguyên Môi trường Đặng Quốc Khánh.
Lê Phúc – Đăng Công – Trần Dương