1. Đặt vấn đề
Kiểm soát việc góp vốn thành lập doanh nghiệp là vấn đề “nhức nhối”, làm tốn nhiều giấy mực và công sức nghiên cứu của các chuyên gia, nhà khoa học pháp lý. Vấn đề kiểm soát việc góp vốn để chống sở hữu chéo, chống việc thành lập công ty “ma” cũng đã và đang thu hút nhiều sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, các cơ quan quản lý nhà nước. Những tác động xấu của sở hữu chéo, những công ty “ma” có số vốn khổng lồ nhưng chỉ tồn tại trên giấy đến sự vận hành ổn định của nền kinh tế vẫn luôn khó lường, tiềm ẩn nhiều rủi ro có thể gây ra thiệt hại cực kỳ lớn đối với nền kinh tế. Cụ thể hơn, việc sở hữu chéo, thành lập các công ty “ma” có thể tác động sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế, đến nhiều mặt của đời sống xã hội, niềm tin của những nhà đầu tư, bao gồm cả nhà đầu tư chuyên nghiệp, tập đoàn, cho đến nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ, nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Một ví dụ điển hình nhất đối với tác động xấu của sở hữu chéo, thành lập công ty “ma” đối với nền kinh tế là đại án Công ty cổ phần Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (Tập đoàn VTP) - Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (Ngân hàng SCB). Đại án này thuộc diện quản lý của Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng, hiện đang được đưa ra xét xử và thu hút được sự quan tâm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các cơ quan báo chí trong, ngoài nước và người dân.
Với tư cách là luật sư tham gia bào chữa trong đại án Tập đoàn VTP - Ngân hàng SCB có sự quan tâm và nghiên cứu riêng của mình về vấn đề kiểm soát quyền sở hữu trong góp vốn thành lập doanh nghiệp, tác giả đã nghiên cứu những hành vi vi phạm của bị cáo Trương Mỹ Lan cùng các đồng phạm và các quy định của pháp luật có liên quan để có thể thấy được thực trạng của pháp luật hiện hành về kiểm soát quyền sở hữu trong góp vốn thành lập doanh nghiệp. Từ đó, tác giả đưa ra những kiến nghị để từng bước sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định hiện hành cũng như ban hành mới các quy định trong phạm vi quyền sở hữu nhằm giảm thiểu tác động xấu của những hành vi vi phạm trong việc góp vốn thành lập doanh nghiệp đối với nền kinh tế.
2. Phương thức, thủ đoạn phạm tội của Trương Mỹ Lan và đồng phạm
Theo Cáo trạng số 219/Ctr-VKSTC-V3 ngày 13/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Cáo trạng số 219/Ctr-VKSTC-V3) thì Trương Mỹ Lan và đồng phạm đã thực hiện các phương thức, thủ đoạn phạm tội sau:
2.1. Thâu tóm cổ phần Ngân hàng SCB
Trương Mỹ Lan là chủ tịch của Tập đoàn VTP, bao gồm một tập hợp các Công ty con, Công ty liên kết. Để có nguồn vốn lớn phục vụ hoạt động của hệ sinh thái Công ty liên kết cũng như việc liên tục đầu tư, mua các dự án bất động sản, Trương Mỹ Lan đã tìm cách thâu tóm, chi phối, điều hành toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng SCB, trong đó có hoạt động cho vay.
Thực tế, trước thời điểm hợp nhất các ngân hàng, Trương Mỹ Lan đã sở hữu cổ phần của cả 03 ngân hàng. Sau khi hợp nhất, Trương Mỹ Lan tiếp tục nhờ 73 cổ đông đứng tên sở hữu 85,606% cổ phần của Ngân hàng SCB, đồng thời tiếp tục mua và sử dụng cá nhân đứng tên cổ phần Ngân hàng SCB để tăng tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng này lên 91,545% vào ngày 01/01/2018. Tính đến tháng 10/2022, Trương Mỹ Lan đã sở hữu, chi phối gần 1,4 triệu cổ phần Ngân hàng SCB, chiếm 91,536% vốn điều lệ, do 27 pháp nhân (trong và ngoài nước), cá nhân đứng tên giúp; trong đó Trương Mỹ Lan trực tiếp đứng tên sở hữu gần 76 triệu cổ phần, chiếm 4,982% vốn điều lệ.
2.2. Tuyển chọn, bố trí nhân sự để nắm quyền chi phối, chỉ đạo, điều hành toàn bộ hoạt động của Ngân hàng SCB
Trương Mỹ Lan đã tuyển chọn, đưa các cá nhân thân tín, có trình độ trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, nghe theo chỉ đạo của Trương Mỹ Lan vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt tại Ngân hàng SCB (Hội đồng quản trị, Ban Tổng giám đốc, Giám đốc các chi nhánh lớn, Trưởng Ban kiểm soát), trả mức lương cao từ 200 - 500 triệu đồng/tháng; tặng, thưởng tiền, cổ phần Ngân hàng SCB, để thông qua các cá nhân này điều hành toàn bộ hoạt động của Ngân hàng SCB, trong đó có hoạt động cho vay.
Bằng cách thâu tóm, nắm giữ cổ phần, chi phối, điều hành hoạt động ngân hàng thông qua các đối tượng chủ chốt, Trương Mỹ Lan đã sử dụng Ngân hàng SCB như một công cụ tài chính, huy động tiền gửi và vốn từ các nguồn khác, sau đó chỉ đạo rút tiền bằng cách tạo lập các khoản vay khống, phục vụ cho mục đích cá nhân. Để rút được tiền từ Ngân hàng SCB, Trương Mỹ Lan đã điều hành, chỉ đạo các cá nhân thân tín, giữ vai trò chủ chốt tại Ngân hàng SCB và Tập đoàn VTP để chỉ đạo các đối tượng tại Ngân hàng SCB, Tập đoàn VTP thành lập nhiều bộ phận, đơn vị, công ty, thuê và sử dụng hàng nghìn cá nhân, câu kết chặt chẽ với nhau, thông đồng với các công ty thẩm định giá, triển khai rút tiền Ngân hàng SCB.
2.3. Thành lập các đơn vị thuộc Ngân hàng SCB chỉ để cho vay, giải ngân theo yêu cầu của Trương Mỹ Lan
Hoạt động của các chi nhánh Ngân hàng SCB chịu sự kiểm tra, kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh nên từ năm 2020, Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng SCB thành lập 03 đơn vị cho vay chỉ để phục vụ cho các khoản vay của Trương Mỹ Lan.
Điều đặc biệt của 03 đơn vị này là có chức năng cho vay như các chi nhánh nhưng trực thuộc quản lý điều hành của Hội sở Ngân hàng SCB, không có bộ phận kho quỹ và con dấu riêng mà sử dụng con dấu của đơn vị khác khi hoạt động và chỉ lập hồ sơ cho vay đối với các khoản vay của Trương Mỹ Lan.
2.4. Chỉ đạo, thành lập, sử dụng các công ty “ma”, thuê/nhờ các cá nhân để đứng tên hồ sơ vay, cổ phần, tài sản bảo đảm, ký hợp thức chứng từ rút, nộp tiền để tạo lập hồ sơ vay vốn khống
Việc thành lập các công ty “ma” được Trương Mỹ Lan giao cho các cá nhân khác tìm và thuê người đứng tên người đại diện theo pháp luật, cổ đông, thành viên công ty, chọn ngành nghề kinh doanh,… phù hợp với yêu cầu của Trương Mỹ Lan và đồng phạm. Kết quả điều tra xác định có 875 khách hàng của Ngân hàng SCB, bao gồm 440 pháp nhân, 435 cá nhân đứng tên 1.284 khoản vay được Trương Mỹ Lan chỉ đạo nhóm đối tượng tại Tập đoàn VTP thành lập, thuê hoặc nhờ người đứng tên.
Bản Kết luận điều tra số 35/BKLĐT-CSKT-P2 ngày 12/11/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an thì trong quá trình hoạt động, Tập đoàn VTP đã xây dựng hệ sinh thái Tập đoàn VTP với hơn 1.000 doanh nghiệp, gồm các công ty con, công ty thành viên trong và ngoài nước, chia thành nhiều tầng lớp, với hàng trăm cá nhân được thuê đứng tên đại diện pháp luật, hoặc là người có quan hệ họ hàng, cán bộ, công nhân viên Tập đoàn VTP.
2.5. Câu kết với các đối tượng là chủ sở hữu, đại diện theo pháp luật các công ty có liên quan để tạo lập khoản vay, cùng sử dụng, chiếm đoạt tiền của Ngân hàng SCB
Ngoài việc tạo lập các công ty “ma” đứng tên hồ sơ vay vốn, Trương Mỹ Lan còn câu kết và chỉ đạo các đối tượng là chủ sở hữu, đại diện theo pháp luật hoặc được giao quản lý các công ty thực có hoạt động để các công ty này đứng tên vay vốn để Trương Mỹ Lan và những đối tượng này sử dụng.
2.6. Tạo lập hồ sơ vay vốn khống để hợp thức việc rút tiền của Ngân hàng SCB
Mỗi khi cần rút tiền của Ngân hàng SCB, Trương Mỹ Lan chỉ đạo các cá nhân giữ những vị trí lãnh đạo tại Ngân hàng SCB lập phương án vay vốn khống để hợp thức khoản vay, đưa các cá nhân được thuê/nhờ đứng tên khoản vay, đứng tên tài sản, đại diện công ty “ma” đến ký vào hồ sơ vay vốn khống, hồ sơ thế chấp, hầu hết là ký vào các tờ giấy trắng đã được đánh dấu sẵn vị trí cần ký. Điều đặc biệt là hầu hết các khoản vay của Trương Mỹ Lan được giải ngân trước và thực hiện hợp thức hồ sơ vay sau.
2.7. Thông đồng, câu kết với các công ty thẩm định giá để cấp chứng thư nâng khống giá trị tài sản bảo đảm, đưa vào hồ sơ vay vốn; đưa tài sản bảo đảm không đủ pháp lý; không đăng ký giao dịch bảo đảm; rút tài sản có giá trị lớn hoán đổi bằng tài sản có giá trị thấp hơn
Để hợp thức hồ sơ, rút được tiền tại Ngân hàng SCB, Trương Mỹ Lan và các đồng phạm đã dùng nhiều tài sản chưa đủ điều kiện pháp lý, nâng khống giá để đưa vào làm tài sản bảo đảm cho các khoản vay. Sau đó, khi cần rút các tài sản có pháp lý có giả trị để bán hoặc sử dụng cho các mục đích khác, Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo các đồng phạm thực hiện việc hoán đổi, rút các tài sản bảo đảm có giá trị ra khỏi Ngân hàng SCB, thay thế bằng các tài sản khác, hầu hết có giá trị thấp hơn tài sản đã rút ra. Để dễ dàng hoán đổi tài sản bảo đảm, Trương Mỹ Lan và các đồng phạm không đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định hoặc biến tướng thành “quyền tài sản” để tránh việc đăng ký giao dịch bảo đảm.
2.8. Lập phương án rút tiền, cắt đứt dòng tiền sau khi giải ngân
Để hợp thức việc rút tiền đã được Ngân hàng SCB giải ngân theo phương án khống, cắt đứt, che giấu dòng tiền, tránh sự phát hiện, xử lý của các cơ quan chức năng, Trương Mỹ Lan chỉ đạo những cá nhân có liên quan lập phương án thực hiện việc “giải quỹ” bằng việc lập hợp đồng hứa chuyển nhượng cổ phần khống để có thể sử dụng tiền mà không bị cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý, đồng thời né tránh việc phải nộp thuế theo quy định của pháp luật, đồng thời phối hợp với các nhân đứng tên người thụ thưởng khoản vay để đến Ngân hàng SCB ký chứng từ rút, nộp tiền.
2.9. Bán nợ xấu cho công ty quản lý tài sản (VAMC), bán nợ các khoản cấp tín dụng trả chậm cấn trừ nợ để giảm dư nợ tín dụng và giảm tỷ lệ nợ xấu
Khi các khoản vay khống quá hạn, phải hạch toán nợ xấu nhóm 5, trong khi tỷ lệ tăng trưởng tín dụng bị hạn chế theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, Trương Mỹ Lan không trả nợ xấu mà còn chỉ đạo đồng phạm thực hiện thủ đoạn bán nợ xấu cho VAMC và bán nợ trả chậm cho chính các công ty “ma” do nhóm Tập đoàn VTP thành lập để che giấu một phần số nợ xấu, không phải hạch toán lãi, giảm dư nợ tín dụng nhằm tiếp tục chiếm đoạt tiền của SCB.
2.10. Mua chuộc cán bộ, lãnh đạo các cơ quan có thẩm quyền
Để che giấu hành vi phạm tội khi bị thanh tra, kiểm tra, Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo các cán bộ chủ chốt của Ngân hàng SCB mua chuộc cán bộ, lãnh đạo Cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh, Tổ trưởng Tổ giám sát tăng cường tại Ngân hàng SCB để các cá nhân có thẩm quyền bưng bít, che giấu thông tin sai phạm, báo các kết quả thanh, kiểm tra không trung thực, không đầy đủ.
3. Những phương thức, thủ đoạn phạm tội của Trương Mỹ Lan và đồng phạm có liên quan đến quy định về kiểm soát tài sản góp vào doanh nghiệp
Với quy định của pháp luật hiện hành về quyền sở hữu và kết quả điều tra, truy tố việc thực hiện các phương thức, thủ đoạn phạm tội được nêu tại Cáo trạng thì có thể thấy có 02 phương thức, thủ đoạn phạm tội của Trương Mỹ Lan và đồng phạm có liên quan đến pháp luật về quyền sở hữu. Cụ thể là những phương thức, thủ đoạn phạm tội sau: (i) Thâu tóm cổ phần Ngân hàng SCB và (ii) Chỉ đạo, thành lập, sử dụng các công ty “ma”, thuê/nhờ các cá nhân để đứng tên hồ sơ vay, cổ phần, tài sản bảo đảm, ký hợp thức chứng từ rút, nộp tiền để tạo lập hồ sơ vay vốn khống.
Theo Cáo trạng số 219/Ctr-VKSTC-V3 thì kết quả điều tra xác định: Về mặt pháp lý, Ngân hàng SCB và các công ty thuộc hệ sinh thái Tập đoàn VTP hạch toán tài chính kế toán, kê khai báo cáo thuế độc lập, nhưng về bản chất, các pháp nhân này được Trương Mỹ Lan thành lập mới hoặc mua lại cổ phần, vốn góp của các công ty khác. Bên cạnh đó, Trương Mỹ Lan và các đồng phạm chỉ định người thân quen hoặc thuê, nhờ các cá nhân khác đứng tên hộ. Do vậy, thông qua việc mua lại cổ phần, phần vốn góp, các pháp nhân này đều thuộc sở hữu và chịu sự điều hành của Trương Mỹ Lan.
Như vậy, để có thể biến Ngân hàng SCB thành công cụ để phục vụ cho mục đích riêng của mình, Trương Mỹ Lan đã tìm cách thâu tóm, trở thành chủ sở hữu phần lớn cổ phần của Ngân hàng SCB để có quyền chi phối, điều hành toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng này. Tuy nhiên, việc công khai là chủ sở hữu phần vốn góp, cổ phần tại các công ty thuộc hệ sinh thái Tập đoàn VTP cũng như của Ngân hàng SCB là không thể vì sẽ vi phạm các quy định của pháp luật. Chính vì vậy, Trương Mỹ Lan và các đồng phạm phải tìm cách lách luật, tìm những kẽ hở của pháp luật để có thể thực hiện được hành vi của mình.
Qua đó, có thể thấy còn tồn tại nhiều vấn đề về thực trạng của pháp luật hiện hành điều chỉnh vấn đề quyền sở hữu thực sự của các phần vốn góp trong việc thành lập doanh nghiệp hoặc sở hữu cổ phần của những doanh nghiệp đã tồn tại. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng của pháp luật về vấn đề này vẫn luôn là một vấn đề bức thiết trong giai đoạn hiện nay.
4. Thực trạng pháp luật hiện hành trong kiểm soát quyền đối với tài sản vốn góp thành lập doanh nghiệp
4.1. Về chủ thể có quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp
Theo quy định tại khoản 3 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì:
“Tổ chức, cá nhân có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ trường hợp sau đây:
a) Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
b) Đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức, Luật Phòng, chống tham nhũng”.
Với quy định nêu trên thì mọi tổ chức, cá nhân đều được quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh nếu không thuộc các trường hợp bị cấm theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 3 Điều 17 Luật Doanh nghiệp năm 2020.
Chính vì quy định này mà đã có hơn một ngàn cá nhân được Trương Mỹ Lan và đồng phạm thuê đứng tên thành lập các doanh nghiệp “ma” để giúp Trương Mỹ Lan thực hiện được mục tiêu của mình. Những cá nhân này thực chất không phải là chủ sở hữu của nguồn vốn góp vào doanh nghiệp, cũng không thực sự là người có quyền sử dụng nguồn vốn góp đó. Thực chất, những cá nhân chỉ đứng tên thành lập các doanh nghiệp, chỉ là người được thuê, còn mọi hoạt động của doanh nghiệp, kể cả quyền sử dụng, quyết định đối với nguồn vốn góp và doanh nghiệp lại do Trương Mỹ Lan và các đồng phạm giữ quyền kiểm soát và ra quyết định, thực hiện các hoạt động có liên quan.
4.2. Về tài sản góp vốn và các hành vi bị cấm đối với tài sản góp vốn
Theo quy định tại khoản 1 Điều 34 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì: “Tài sản góp vốn là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, tài sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam”.
Theo quy định tại khoản 17 Điều 4 Luật Giá năm 2023 thì: “Tài sản thẩm định giá bao gồm tài sản, hàng hóa, dịch vụ, được cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu thẩm định giá theo nhu cầu hoặc các trường hợp pháp luật quy định phải thẩm định giá”.
Như vậy, có thể thấy tài sản có thể được sử dụng để làm tài sản góp vốn vào doanh nghiệp có phạm vi rất rộng. Đối chiếu với quy định tại Điều 105 và Điều 115 Bộ luật Dân sự năm 2015 và quy định nói trên của Luật Giá năm 2023 thì tài sản góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2020 vừa có thể là động sản, vừa có thể là bất động sản, vừa có thể là quyền tài sản.
Chính phạm vi rất rộng của các loại tài sản có thể được sử dụng để góp vốn vào doanh nghiệp đã tạo nên “kẽ hở” có thể bị lợi dụng để trục lợi từ việc góp vốn vào doanh nghiệp. Đồng thời, việc định giá tài sản góp vốn cũng còn “kẽ hở” dễ dàng bị lợi dụng. Cụ thể:
- Đối với trường hợp góp vốn thành lập doanh nghiệp thì khoản 2 Điều 36 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc đồng thuận hoặc do một tổ chức thẩm định giá định giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được trên 50% số thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận”.
- Đối với những doanh nghiệp đã đi vào hoạt động thì khoản 3 Điều 36 Luật Doanh nghiệp năm 2020 quy định: “Tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do chủ sở hữu, Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty hợp danh, Hội đồng quản trị đối với công ty cổ phần và người góp vốn thỏa thuận định giá hoặc do một tổ chức thẩm định giá định giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá định giá thì giá trị tài sản góp vốn phải được người góp vốn và chủ sở hữu, Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận”. Định giá là một công việc đòi hỏi chuyên môn cao, tuy nhiên, những quy định tại khoản 3 Điều 36 Luật Doanh nghiệp năm 2020 đã “linh động” tạo điều kiện cho các thành viên, cổ đông sáng lập hoặc chủ sở hữu, Hội đồng thành viên, Hội đồng quản trị thỏa thuận với chính người góp vốn. Những quy định này là tiền đề cho việc định giá không đúng với thực tế đối với giá trị của tài sản góp vốn vào doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, đa số các cổ đông/thành viên sáng lập không có chuyên môn, nghiệp vụ để định giá tài sản góp vốn. Vì vậy, việc định giá sai rất dễ xảy ra. Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp chưa phân định cụ thể tỷ lệ trách nhiệm giữa cổ đông/thành viên góp vốn và các cổ đông/thành viên định giá khi định giá sai giá trị tài sản góp vốn khiến việc giải quyết hậu quả rất khó khăn[1].
Đó là chưa kể đến chất lượng của hoạt động định giá chuyên nghiệp hiện nay cũng có nhiều vấn đề cần phải cải thiện. Trong đó đặc biệt là chất lượng hoạt động hành nghề thẩm định giá cần được tiếp tục củng cố, nâng cao[2].
Như vậy, từ những bất cập về quy định đối với quyền tự định giá của các thành viên sáng lập hoặc của chính doanh nghiệp sau khi đã đi vào hoạt động cũng như thực trạng của hoạt động định giá tại Việt Nam đã tạo ra những rủi ro định giá sai so với giá trị của tài sản góp vốn vào doanh nghiệp. Rủi ro này thể hiện ở chỗ có thể tài sản được sử dụng để góp vốn vào doanh nghiệp không được định giá đúng giá trị, có thể bị nâng khống hoặc định giá thấp hơn so với giá trị thực.
Mặc dù hành vi định giá tài sản góp vốn không đúng giá trị là hành vi bị cấm theo quy định tại khoản 5 Điều 16 Luật Doanh nghiệp năm 2020. Tuy nhiên, quy định này của Luật Doanh nghiệp năm 2020 chỉ cấm đối với hành vi “cố ý” định giá không đúng giá trị. Việc xác định thế nào là “cố ý” luôn là một thách thức không nhỏ và có thể phải trải qua cả một quá trình tố tụng phức tạp mới có thể xác định được thế nào là một hành vi cố ý. Cũng chính vì sự phức tạp này mà không phải cơ quan quản lý đăng ký doanh nghiệp nào cũng sẵn lòng muốn chứng minh mà phần lớn là tin tưởng vào giá trị của tài sản do các công ty thẩm định giá xác định. Từ đó, có thể phát sinh trường hợp định giá không đúng với giá trị của tài sản góp vốn vào doanh nghiệp.
4.3. Về giới hạn tối đa đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp là các tổ chức tín dụng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 55 Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 đến ngày 01/7/2024 có hiệu lực, quy định tại Điều 63) thì một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 05% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, trên thực tế, việc kiểm soát ngưỡng giới hạn này lại không phải là việc dễ dàng thực hiện.
Theo Cáo trạng số 219/Ctr-VKSTC-V3 thì với phương thức, thủ đoạn phạm tội của mình, Trương Mỹ Lan đã nhờ các cổ đông đứng tên và trực tiếp mua cổ phần của SCB để tăng tỷ lệ sở hữu tại ngân hàng này lên đến 91,545% vào ngày 01/01/2018. Từ việc sở hữu với tỷ lệ gần như tuyệt đối tại Ngân hàng SCB mà Trương Mỹ Lan đã có thể chi phối toàn bộ hoạt động của Ngân hàng SCB và biến Ngân hàng SCB thành công cụ để mình và các đồng phạm thực hiện hành vi phạm tội.
Hành vi thâu tóm cổ phần Ngân hàng SCB của Trương Mỹ Lan không phải được thực hiện trong một thời gian ngắn mà thực tế là diễn ra trong nhiều năm. Điều này đã minh chứng cho sự phức tạp, khó khăn trên thực tế trong việc kiểm soát tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cá nhân trong tổ chức tín dụng. Làm cho các quy định của pháp luật khó có thể được thực thi trong thực tiễn. Vì vậy, rất cần phải có cơ chế, các quy định sửa đổi, bổ sung kịp thời để khắc phục tình trạng này.
4.4. Về quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp
Theo quy định tại khoản 2 Điều 34 Luật Doanh nghiệp năm 2020 thì: “Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp hoặc có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản quy định tại khoản 1 Điều này mới có quyền sử dụng tài sản đó để góp vốn theo quy định của pháp luật”.
Như vậy, người góp vốn thành lập doanh nghiệp có thể vừa là chủ sở hữu đối với tài sản góp vốn, vừa có thể là người có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản góp vốn.
Quy định này đã tạo nên “kẽ hở” cho việc lợi dụng “quyền sử dụng hợp pháp” đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp. Cụ thể, người góp vốn có thể chỉ cần thể hiện là mình có quyền sử dụng đối với tài sản góp vốn, có thể thông qua văn bản ủy quyền là đã có thể sử dụng tài sản thuộc sở hữu của người khác để góp vốn vào thành lập doanh nghiệp.
Pháp luật hiện nay cũng chưa có quy định cơ quan đăng ký có quyền yêu cầu người đứng tên phần góp vốn vào doanh nghiệp giải trình về việc vì sao được ủy quyền và phạm vi ủy quyền là gì và cũng chưa có cơ chế để cơ quan đăng ký doanh nghiệp tiến hành kiểm tra, xác minh đối với tài sản góp vốn vào doanh nhiệp.
Thoạt nhìn thì thấy quy định cho phép người có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản có quyền dùng tài sản đó để góp vốn vào doanh nghiệp là một quy định linh hoạt, khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia đăng ký thành lập doanh nghiệp. Nhưng thực tế, quy định này lại tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Bởi lẽ, cá nhân có quyền sở hữu tài sản có thể rơi vào một trường hợp bị cấm góp vốn vào thành lập doanh nghiệp hoặc vì một lý do nào đó để vụ lợi, lách luật nên đã ủy quyền cho người khác quyền sử dụng tài sản để người đó đứng ra thành lập doanh nghiệp. Sau khi doanh nghiệp được thành lập xong thì người có quyền điều hành doanh nghiệp lại chính là người có quyền sở hữu tài sản chứ không phải là người được ủy quyền sử dụng tài sản góp vốn.
Việc lợi dụng “kẽ hở” này không chỉ có trong giai đoạn thành lập doanh nghiệp mà còn có thể bị lợi dụng sau khi doanh nghiệp đã được thành lập thông qua việc các thành viên góp vốn thành lập doanh nghiệp tiến hành thay đổi tài sản góp vốn, hoặc bổ sung tài sản góp vốn để đăng ký tăng vốn cho doanh nghiệp.
Việc Trương Mỹ Lan và đồng phạm có thể thành lập được hơn 1.000 doanh nghiệp “ma” cũng chính là ở việc lợi dụng triệt để quy định này về quyền (bao gồm cả quyền sở hữu hoặc chỉ cần có quyền sử dụng đối với tài sản góp vốn) đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp, gây ra thiệt hại đặc biệt lớn cho Ngân hàng SCB nói riêng và nền kinh tế nói chung. Từ thực tiễn này có thể thấy tính cấp thiết của việc cần phải có phương án sửa đổi, bổ sung quy định hiện hành để có thể giảm thiểu các rủi ro, thiệt hại trong tương lai đối với nền kinh tế.
5. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về kiểm soát đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp
Thứ nhất, về chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp.
Từ những phân tích trên đây có thể thấy cần phải cân nhắc để sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành theo hướng chỉ những cá nhân, tổ chức có quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp (tức là bãi bỏ quy định hiện hành đối với người chỉ có quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp cũng được đứng tên góp vốn vào doanh nghiệp) thì mới được quyền trở thành thành viên góp vốn thành lập doanh nghiệp mới hoặc doanh nghiệp đã đi vào hoạt động.
Tác giả cho rằng, quy định này nếu được ban hành sẽ hạn chế được tình trạng người có quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn rơi vào những trường hợp bị cấm góp vốn thành lập doanh nghiệp hoặc vào các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động (như trường hợp cá nhân bị giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần trong tổ chức tín dụng), ủy quyền cho người khác sử dụng tài sản của mình để góp vốn vào doanh nghiệp nhằm né tránh các quy định cấm của pháp luật.
Thứ hai, về nguồn gốc tài sản góp vốn vào doanh nghiệp.
Nếu chỉ dừng lại ở quy định chỉ có những người có quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn mới được đứng tên góp vốn vào doanh nghiệp thì vẫn có thể phát sinh trường hợp giả tạo giao dịch chuyển nhượng tài sản góp vốn. Giao dịch này chỉ là giao dịch giả tạo nhằm che lấp tình trạng bị hạn chế hoặc bị cấm theo quy định của pháp luật đối với chủ sở hữu thực sự của tài sản góp vốn. Ẩn sau giao dịch chuyển nhượng giả tạo này là một thỏa thuận giữa chủ sở hữu thực của tài sản góp vốn và người nhận chuyển nhượng tài sản góp vốn một cách giả tạo. Để theo đó, người chủ sở hữu thực của tài sản góp vốn vẫn có quyền chi phối, điều hành mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Do đó, tác giả cho rằng rất nên cân nhắc bổ sung quy định chứng minh nguồn gốc hình thành của tài sản góp vốn, hay nói cách khác là chứng minh quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp của các cá nhân, tổ chức đứng tên tài sản góp vốn. Bên cạnh đó, cũng cần cân nhắc ban hành các quy định pháp luật để tạo nên quyền được điều tra, xác minh nguồn gốc hình thành, quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn của cơ quan đăng ký doanh nghiệp.
Thứ ba, về quyền định giá đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp.
Để hạn chế được những rủi ro cũng như tránh những hệ lụy từ việc định giá tài sản góp vốn vào doanh nghiệp, tác giả cho rằng nên có những quy định sửa đổi, bổ sung như sau:
(i) Quy định danh mục những tài sản mà doanh nghiệp hoặc các thành viên góp vốn được quyền tự thỏa thuận xác định giá trị. Còn lại, những tài sản khác mà việc định giá phức tạp thì bắt buộc phải qua thủ tục thẩm định giá chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật về thẩm định giá.
(ii) Bãi bỏ quy định chỉ có những hành vi “cố ý” định giá sai mới bị cấm mà cần phải có quy định “cấm mọi hình thức định giá sai” để các chủ thể có liên quan hết sức cẩn trọng trong việc định giá. Khi đó, các thành viên góp vốn hay các doanh nghiệp cho dù ở trong trường hợp được quyền tự thỏa thuận định giá tài sản góp vốn cũng sẽ phải hết sức cẩn trọng.
Với những phân tích và đề suất từ thực trạng hoạt động góp vốn vào doanh nghiệp cũng như các quy định hiện hành về kiểm soát quyền sở hữu đối với tài sản dùng để góp vốn vào doanh nghiệp có thể thấy yêu cầu cần tăng cường kiểm soát quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp là một yêu cầu cấp thiết. Yêu cầu này hoàn toàn phù hợp với thực trạng của hoạt động đăng ký doanh nghiệp, đăng ký thay đổi vốn góp và sự khiếm khuyết hiện nay của hệ thống các quy định pháp luật về vấn đề này. Kiểm soát tốt quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn vào doanh nghiệp sẽ hạn chế được rất lớn khả năng thành lập các doanh nghiệp “ma”, các doanh nghiệp có số vốn khổng lồ nhưng thực chất lại là vốn ảo. Từ đó, sẽ góp phần làm lành mạnh hoạt động kinh doanh trên thị trường, tránh được các rủi ro liên quan đến quyền sở hữu tài sản góp vốn khi những tài sản này trở thành tài sản được dùng bảo đảm cho các khoản vay tín dụng.
ThS. LS. Ngô Quí Linh
Giám đốc Công ty Luật TNHH MTV Mai Đăng Khang
[1] ThS.NCS. Nguyễn Ngọc Huy (2023), Định giá tài sản góp vốn thành lập doanh nghiệp: Từ luật thực định đến thực tiễn áp dụng, https://lsvn.vn/dinh-gia-tai-san-gop-von-thanh-lap-doanh-nghiep-tu-lua-t-thu-c-di-nh-de-n-thu-c-tie-n-a-p-du-ng-1688658436.html.
[2] Nguyễn Anh Tuấn (2022), Hoàn thiện quản lý nhà nước về thẩm định giá tại Việt Nam đến năm 2030, https://mof.gov.vn/webcenter/portal/vclvcstc/pages_r/l/chi-tiet-tin?dDocName=MOFUCM229120.