Trọng tài là một trong những phương thức giải quyết tranh chấp có nhiều ưu việt, được nhiều doanh nghiệp lựa chọn
Luật trọng tài thương mại 2010 - Bước phát triển mới của pháp luật trọng tài thương mại
Luật TTTM 2010 sau 14 năm hiệu lực, về cơ bản đáp ứng được nhu cầu của Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế, đáp ứng nhu cầu của việc hội nhập kinh tế trong khu vực và trên thế giới, các Điều ước, các Hiệp ước, Hiệp định mà Việt Nam đã tham gia và ký kết. Luật TTTM 2010 được ban hành là sự cụ thể hóa chủ trương khuyến khích phát triển trọng tài , là sự bảo đảm thể chế hóa đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về giải quyết tranh chấp thương mại trong Nghị quyết số 48-NQ/TW.
Cùng với sự ra đời của Luật TTTM , các quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng hợp lý hơn so với các văn bản pháp luật trước đây và phù hợp hơn pháp luật trọng tài quốc tế như các quy định về thẩm quyền của trọng tài, hình thức tố tụng trọng tài, nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, điều kiện giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, ...Điều này đã tạo ra cơ hội lớn cho TTTM nước ta trở thành phương thức giải quyết nhanh chóng, thuận lợi và nhiều ưu thế đúng với bản chất vốn có của nó.
Sau khi Luật TTTM 2010 có hiệu lực, số lượng vụ việc giải quyết bằng trọng tài ngày càng tăng cao bởi các ưu điểm vượt trội của LTTTM. Theo báo cáo gần nhất, năm 2022, VIAC thụ lý 292 vụ tranh chấp mới, tăng 8,15% số vụ tranh chấp so với năm 2021. Theo đó tổng số vụ tranh chấp VIAC thụ lý trong giai đoạn 1993 – 2022 là 2.513 vụ tranh chấp, trong đó có 39,99% vụ tranh chấp trong nước và 60,01% vụ tranh chấp có yếu tố nước ngoài (bao gồm cả các vụ có ít nhất một bên là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài).[1] Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cũng đã tiếp cận được hầu hết các tỉnh, thành phố tại Việt Nam và được các tranh chấp có yếu tố nước ngoài ưu tiên lựa chọn . Theo thống kê tại VIAC ghi nhận các bên tranh chấp đến từ 59/64 tỉnh, thành phố tại Việt Nam và từ 64 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Không những số lượng vụ việc trọng tài thụ lý tăng lên mà các lĩnh vực trọng tài giải quyết tranh chấp ngày càng rất đa dạng gồm các lĩnh vực: mua bán hàng hóa, lao động, xây dựng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, mua bán & sáp nhập, dịch vụ kiểm toán, sở hữu trí tuệ….Trong đó, mua bán hàng hóa tiếp tục là lĩnh vực có số vụ tranh chấp thụ lý và giải quyết cao nhất tại VIAC với tỷ lệ 37,5% tổng số vụ việc.
Chính vì vậy, trước nhu cầu của xã hội, biến động của nền kinh tế thị trường, sự phức tạp của các tranh chấp thương mại và sự phát triển của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài , Luật TTTM với mục đích bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong hoạt động thương mại, bảo vệ bí mật kinh doanh, uy tín… đòi hỏi pháp luật về trọng tài thương mại Việt Nam cần liên tục cập nhật, sửa đổi, bổ sung để phán ảnh kịp thời những tiến bộ, phục vụ cho công cuộc đổi mới hội nhập kinh tế sâu rộng. Đây là một yêu cầu cần thiết để đảm bảo cho TTTM là một phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả và phù hợp với nhu cầu thực tiễn.
Một số bất cập, vướng mắc trong áp dụng Luật trọng tài thương mại hiện nay
Thứ nhất, về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
Thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là giới hạn những vụ việc mà pháp luật cho phép trọng tài giải quyết. Khoản 1 Điều 2 LTTTM quy định, việc xác định thẩm quyền giải quyết của trọng tài sẽ vẫn gây tranh luận đó là tranh chấp phát sinh từ “hoạt động thương mại” được hiểu theo quy định nào? Nhiều quan điểm tiếp cận khái niệm “hoạt động thương mại” theo quy định của Luật thương mại 2005 “hoạt động thương mại gồm các hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác”… Cách hiểu này rất hợp lý, song khái niệm này chỉ được hiểu trong khuôn khổ của Luật thương mại 2005.
Bên cạnh đó, trọng tài còn có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp mà chỉ cần một bên chủ thể có hoạt động kinh doanh thương mại. Vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau, có nhiều cách hiểu, chưa thống nhất về vấn đề này. Cách hiểu thứ nhất đó là chỉ cần một bên trong quan hệ pháp luật tranh chấp có hoạt động thương mại và lĩnh vực phát sinh tranh chấp là bất cứ lĩnh vực nào như lao động, dân sự,…Với cách hiểu thứ hai, đó là chỉ cần một bên chủ thể có hoạt động thương mại và tranh chấp phát sinh phải là từ hoạt động thương mại - là các hoạt động sinh ra lợi nhuận. Trên thực tế, có rất nhiều quan hệ trong đó một bên có hoạt động thương mại, còn bên kia không có hoạt động thương mại nhưng không rõ có thuộc thẩm quyền của trọng tài hay không?
Do đó, tới đây khi sửa hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại cần quy định cụ thể hơn về các khái niệm liên quan đến thẩm quyền giải quyết của trọng tài để thống nhất cách hiểu quy định tại khoản 2 Điều 2 của Luật.
Quang cảnh Hội thảo góp ý dự thảo Báo cáo nghiên cứu, rà soát Luật Trọng tài thương mại ( Hội thảo do Hội Luật gia VN chủ trì tổ chức)
Thứ hai, về nguyên tắc giải quyết tranh chấp không công khai
Pháp luật Việt Nam tuy đã ghi nhận tính không công khai của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhưng sự ghi nhận còn chưa đầy đủ, chưa bao quát. Nhiều điều khoản trong Luật TTM đã ghi nhận việc đảm bảo tính bí mật và không công khai trong tố tụng trọng tài như Điều 4 Luật TTTM quy định “Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác”; Hay như Khoản 1 Điều 55 Luật này quy định“ Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.” . Luật chỉ tập trung ghi nhận không công khai trong quá trình diễn ra phiên họp giải quyết tranh chấp giữa các bên, chứ chưa có quy định nào về việc bảo mật thông tin trong quá trình nghiên cứu hồ sơ hay thậm chí khi vụ việc kết thúc. [2] .
Khoản 5 Điều 21 Luật TTTM cũng chỉ quy định nghĩa vụ của trọng tài viên một cách chung chung rằng Trọng tài viên có nghĩa vụ “Giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp mà mình giải quyết, trừ trường hợp phải cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật”. Nội dung tranh chấp ở đây được hiểu như thế nào, chỉ bao gồm các quan hệ phát sinh tranh chấp (trả lời cho câu hỏi tranh chấp cái gì) hay bao gồm các chủ thể của các bên tranh chấp, các tài liệu mà các bên gửi. Các bên tham gia tranh chấp, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, những nhân chứng được triệu tập tại phiên họp có nghĩa vụ giữ bí mật nội dung vụ tranh chấp không? Vấn đề này vẫn đang được bỏ ngỏ tại các quy định về trọng tài tại Việt Nam.
Luật TTTM mới chỉ ghi nhận nghĩa vụ bảo mật thông tin của Trọng tài viên chứ chưa ghi nhận sự bảo mật thông tin của người tham gia tố tụng. Do vậy, nguyên tắc bảo mật thông tin không công khai trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại chưa được áp dụng triệt để, chỉ mới thể hiện rõ trong phiên họp giải quyết tranh chấp, còn ngoài phiên họp giải quyết tranh chấp, nghĩa vụ bảo mật thông tin mới chỉ áp dụng cho trọng tài viên chứ chưa áp dụng cho các bên tham gia tố tụng, đặc biệt là những người làm chứng. Vấn đề này cũng cần đặt ra xem xét qui định thấu đáo khi sửa Luật Trọng tài thương mại tới đây.
Thứ ba, về hình thức và nội dung đơn khởi kiện
Pháp luật trọng tài hiện nay qui định khi xét thấy, tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện gửi đến Trung tâm trọng tài. Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn.
Đơn khởi kiện theo Điều 30 Luật TTTM 2010 gồm có các nội dung sau đây: Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện; Tên, địa chỉ của các bên; tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có; Tóm tắt nội dung vụ tranh chấp; Cơ sở và chứng cứ khởi kiện, nếu có; Các yêu cầu cụ thể của nguyên đơn và giá trị vụ tranh chấp;Tên, địa chỉ người được nguyên đơn chọn làm Trọng tài viên hoặc đề nghị chỉ định Trọng tài viên.
Luật LTTM không quy định nội dung đơn khởi kiện phải ghi tên của trung tâm trọng tài giải quyết, điều này là không phù hợp với hình thức của một văn bản, khi muốn gửi đơn đến cá nhân, tổ chức nào thì phải ghi rõ, đầy đủ tên chủ thể nhận đơn. Tại điểm đ khoản 2 Điều 30 Luật TTTM, sử dụng từ “nếu có” tại phần cơ sở và chứng cứ khởi kiện, như vậy, yếu tố này là không bắt buộc khi nộp dơn khởi kiện. Tuy nhiên, theo tác giả, cơ sở và chứng cứ khởi kiện là căn cứ quan trọng để Luật TTTM xác minh sự kiện và ban hành phán quyết chính xác, công tâm.
Luật TTTM không quy định về hình thức của đơn khởi kiện, không đề cập đến chủ thể có thẩm quyền ký đơn, nên thường gây lúng túng khi cơ quan có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của đơn khởi kiện, đây là quy định quan trọng trong tố tụng trọng tài, vì đơn khởi kiện có đủ điều kiện để thụ lý hay không là bước đầu tiên phải xem xét.
Nhiều hội thảo về Luật Trọng tài thương mại đã được tổ chức để tổng hợp ý kiến chuyên gia, nhà nghiên cứu, nhà quản lý về thực tiễn thi hành và việc sửa đổi luật nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển
Thứ tư, về thời điểm cuối cùng các bên được nộp tài liệu, chứng cứ
Luật TTTM hiện nay chưa có quy định cụ thể về vấn đề này, đây cũng là một kẽ hở để một bên có thời gian thu thập tài liệu, chứng cứ mới, quan trọng làm thay đổi nội dung giải quyết tranh chấp. Thời điểm cuối cùng các bên được nộp tài liệu, chứng cứ là một thời điểm quan trọng để các bên thực hiện tròn trách nhiệm, nghĩa vụ của mình cũng như đảm bảo được công bằng cho các bên và góp phần giúp trình tự, thủ tục tố tụng trọng tài được minh bạch, nhanh chóng,. Với quy định như hiện nay, có thể hiểu các bên có thể nộp tài liệu, chứng cứ ngay từ khi nộp đơn khởi kiện, trước khi phán quyết ban hành tại phiên họp hoặc chậm nhất 30 ngày kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng[3]. Điều này tạo ra khó khăn, lúng túng cho Hội đồng Trọng tài trong trường hợp đã ra phán quyết nhưng lại phải xem xét lại toàn bộ phán quyết khi có hồ sơ, tài liệu mới, gây mất thời gian cho các bên, thể hiện sự không chuyên nghiệp của Hội đồng trọng tài.
Thứ năm, chưa có quy định pháp luật về trọng tài điện tử
Trọng tài điện tử có thể được coi là một sự sáng tạo và nâng cấp so với trọng tài truyền thống thông thường, đặc biệt là trong thời đại công nghệ số như hiện nay, có rất nhiều các hợp đồng thương mại được ký kết thông qua chữ ký số, hợp đồng điện tử….Trọng tài điện tử là phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thông qua các ứng dụng công nghệ thông tin và phương thức điện tử. Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nói chung đang được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật TTTM, các văn quy phạm khác điều chỉnh chữ ký điện tử, giao dịch thương mại điện tử. Việc Việt Nam gia nhập Công ước New York 1958 và nội luật hóa các quy tắc mẫu về trọng tài và thương mại điện tử, chữ ký điện tử của UNCITRAL cũng đã góp phần đưa Việt Nam tiếp cận gần hơn, cởi mở hơn, linh hoạt hơn với hệ thống pháp luật về trọng tài quốc tế, trở thành nguồn quan trọng điều chỉnh trọng tài tại Việt Nam, mở rộng ra với cả trọng tài điện tử. [4]
Mặc dù vậy, một khung pháp lý riêng biệt về trọng tài điện tử tại Việt Nam vẫn chưa được định hình. Luật TTTM hay pháp luật Việt Nam vẫn chưa có các quy định riêng biệt, trực tiếp về trọng tài điện tử. Nghị định về chữ ký số, các thông tư hướng dẫn còn thiếu khái quát mà chỉ tập trung ở một số lĩnh vực nhất định. Hầu hết các quy tắc trọng tài tại các trung tâm trọng tài Việt Nam vẫn chưa thực sự quan tâm đến việc tạo ra các quy tắc riêng cho trọng tài điện tử mà vẫn áp dụng các quy tắc trọng tài dành cho trọng tài truyền thống.
Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại
Từ nghiên cứu những vướng mắc phát sinh thực tế khi áp dụng luật TTTM, chúng tôi có một số đề xuất kiến nghị sau:
Thứ nhất, cần quy định cụ thể trong Luật Trọng tài thương mại khái niệm về “hoạt động thương mại”, “Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại.” để có cách hiểu thống nhất. Theo đó, pháp luật trọng tài cần mở rộng hơn nữa thẩm quyền giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, bằng phương pháp loại trừ, liệt kê các loại tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài.
Ảnh minh họa
Thứ hai, cần bổ sung các quy định để đảm bảo tính bảo mật thông tin vụ tranh chấp cũng như các thông tin liên quan đến các bên trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài chứ không đơn thuần chỉ riêng tại phiên họp giải quyết tranh chấp. Đồng thời bổ sung các quy định về nghĩa vụ bảo mật thông tin của người có liên quan đến vụ giải quyết tranh chấp (nguyên đơn, bị đơn, luật sư của các bên, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan). Pháp luật cũng cần quy định theo hướng cho các bên thỏa thuận về phạm vi thông tin cần bảo mật. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật cũng nên ghi nhận ở mức “tối thiểu” cần phải bảo mật trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại; thông tin về các bên liên quan của vụ tranh chấp; nội dung tranh chấp; giá trị tranh chấp; các chứng cứ được nêu trong vụ tranh chấp…
Thứ ba, cần quy định về hình thức đơn khởi kiện, bổ sung quy định về thẩm quyền ký đơn khởi kiện, quy định yêu cầu người viết đơn ghi rõ tên của trung tâm trọng tài giải quyết trong nội dung đơn khởi kiện để Hội đồng trọng tài có cơ sở chính xác ban hành phán quyết công bằng, minh bạch.
Thứ tư, cần có quy định bổ sung về thời điểm cuối cùng các bên được nộp tài liệu chứng cứ, trường hợp nộp sau thời điểm đó thì cần phải có lý do chính đáng mới được chấp nhận, để đảm bảo hiệu quả hoạt động cho Hội đồng trọng tài và đảm bảo quyền lợi cho các bên.
Thứ năm, cần thiết kế bổ sung một chương mới về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài điện tử để kịp thời đáp ứng kỷ nguyên thời đại số, bao gồm các quy định về phương tiện và giao tiếp điện tử; nguyên tắc áp dụng trọng tài điện tử; quy định về bảo mật thông tin; địa điểm trọng tài. Quy định thi hành phán quyết trọng tài… với tư cách là sửa đổi của Luật TTTM hiện hành hoặc luật riêng về trọng tài điện tử.
Năm 2023, Hội Luật gia Việt Nam được Quốc hội và Chính phủ giao chủ trì xây dựng Hồ sơ đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật TTTM. Một số định hướng lớn, quan trọng nhất của việc sửa đổi đạo luật lần này gồm:
Một là mở rộng phạm vi thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại với nghĩa thương mại mở rộng. Điều này không chỉ giúp trọng tài thương mại phát triển mà còn giúp người dân, doanh nghiệp có thêm cơ hội lựa chọn biện pháp giải quyết tranh chấp thay thế.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện quy định về thủ tục tố tụng trọng tài và mở rộng thẩm quyền của Hội đồng trọng tài để trọng tài thực sự là thiết chế hiệu quả, nhanh chóng, thuận tiện, đáp ứng nhu cầu thực tiễn giải quyết tranh chấp; phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, Luật Mẫu và thông lệ quốc tế.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện các quy định về vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với hoạt động trọng tài, đặc biệt là quy định về hủy phán quyết trọng tài một cách rõ ràng, minh bạch, phù hợp hơn. Đây cũng là một trong những điểm mấu chốt thúc đẩy trọng tài nước ta phát triển mạnh mẽ.
…………………………
Tài liệu tham khảo:
1. Luật trọng tài thương mại 2010;
2. Nguyễn Thị Hiển (2013), Những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Hạnh Phúc (2023), Pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng phương thức trọng tài thương mại tại Việt Nam trong bối cảnh nền kinh tế số, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
4.Thống kê hoạt động giải quyết tranh chấp năm 2022 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, https://www.viac.vn/thong-ke/thong-ke-hoat-dong-giai-quyet-tranh-chap-nam-2022-s40.html truy cập lần cuối ngày 19/4/2024.
Nguyễn Thị Thư (Học viên Học viện tư pháp)
Link nội dung: https://phaply.net.vn/mot-so-vuong-mac-tu-thuc-te-ap-dung-luat-trong-tai-thuong-mai-va-de-xuat-huong-hoan-thien-a258065.html