Một số bất cập hạn chế của thể chế pháp luật
Nghiên cứu các quy định về thu hồi tài sản tham nhũng trong một số Luật còn nhiều quy định bất cập, khuyết thiếu, vướng mắc, thiếu đồng bộ, thống nhất và thiếu khả thi.
1, Về Luật Tương trợ tư pháp
Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 đang điều chỉnh cả 4 lĩnh vực, một số điều luật thuộc phần quy định chung khi áp dụng cho hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn đến trên thực tế một số cơ quan có thẩm quyền và cán bộ thực thi pháp luật chưa phân định rõ sự khác nhau giữa các lĩnh vực, từ đó gây khó khăn, vướng mắc trong phối hợp triển khai, thi hành.
Do Luật điều chỉnh cả 4 lĩnh vực dẫn đến trong thực tiễn thực hiện còn có những bất cập, hạn chế bởi những lĩnh vực này mang tính chuyên ngành cao, có sự khác nhau lớn về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, mục đích, tính chất và nguyên tắc hợp tác…
Bên cạnh đó, phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự quy định tại luật hiện hành còn hạn chế, chưa phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam trong cùng lĩnh vực; chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Đáng chú ý, luật chưa có các quy định về những nội dung nêu trên, trong khi đây là những hoạt động tương trợ tư pháp đã quy định trong các điều ước quốc tế song phương, đa phương trong lĩnh vực tư pháp về hình sự mà Việt Nam ký kết, tham gia, phát sinh thực tiễn.
Luật cũng thiếu quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phối hợp . Mặc dù Việt Nam đã ký 19 hiệp định song phương về tương trợ tư pháp hình sự, 01 hiệp định khu vực ASEAN và là thành viên của Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng (UNCAC), nhưng việc hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện nhiệm vụ này là chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Đặc biệt, Luật Tương trợ tư pháp của Việt Nam hiện nay đang thiếu quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phối hợp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp thu hồi tài sản trong tố tụng hình sự, nhất là quy định liên quan đến phong tỏa, kê biên, thu giữ, tịch thu tài sản và xử lý tài sản do phạm tội mà có.
Một vấn đề cũng rất cần quan tâm đó là thực tế hiện nay, một số yêu cầu tương trợ tư pháp của cơ quan tiến hành tố tụng trong nước gửi đi nước ngoài, hoặc yêu cầu chuyển giao truy cứu trách nhiệm hình sự của nước ngoài gửi đến Việt Nam liên quan đến tội phạm có thể áp dụng hình phạt tử hình theo quy định của Bộ luật Hình sự. Trong trường hợp này, các nước không áp dụng hình phạt tử hình thường yêu cầu Việt Nam phải đưa ra cam kết không áp dụng án tử hình, hoặc áp dụng nhưng không thi hành án tử hình là điều kiện để thực hiện hoạt động tương trợ tư pháp. Đây là vấn đề phức tạp nhưng khá phổ biến trong thực tiễn hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, cũng như việc đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự. Tuy nhiên, luật chưa có quy định nào đề cập đến vấn đề này.
Do chưa có quy định cụ thể, thống nhất về trình tự, thủ tục thực hiện cam kết không áp dụng án tử hình trong hoạt động tương trợ tư pháp về hình sự, nên các yêu cầu tương trợ tư pháp của Việt Nam gửi ra nước ngoài có liên quan đến yêu cầu cam kết thường gặp khó khăn.
Luật Tương trợ tư pháp của Việt Nam hiện nay đang thiếu quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, phối hợp yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thực hiện tương trợ tư pháp thu hồi tài sản trong tố tụng hình sự, nhất là quy định liên quan đến phong tỏa, kê biên, thu giữ, tịch thu tài sản và xử lý tài sản do phạm tội mà có.
2, Về Luật Thi hành án dân sự
Luật chưa có quy định về trình tự, thủ tục riêng đối với việc thi hành các khoản thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế, nhất là việc thi hành các biện pháp tư pháp liên quan đến tiền, tài sản (quy trình, thủ tục thi hành đối với các vụ việc loại này được áp dụng như đối với các vụ việc dân sự thông thường), do đó hạn chế hiệu quả thi hành đối với các vụ việc loại này.
Thẩm quyền của cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên trong quá trình Thi hành án dân sự còn hạn chế, đặc biệt là trong việc truy tìm tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát, đồng thời phụ thuộc nhiều vào kết quả của quá trình tố tụng trước đó. Việc thi hành án đối với một số loại tài sản đặc thù trong các vụ án tham nhũng, kinh tế như cổ phần, cổ phiếu, phần vốn góp chưa được quy định đầy đủ.
Ngoài ra luật cũng chưa quy định trách nhiệm bên nhận ủy thác phải thông báo lại kết quả thi hành cho nơi ủy thác, nhất là trong trường hợp ủy thác một phần; trách nhiệm tổng hợp kết quả chung của từng vụ án của nơi thụ lý thi hành án đầu tiên…
3, Về Bộ luật Hình sự , Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật Phòng chống tham nhũng
Bộ luật Hình sự chưa quy định về xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm khi không giải trình được một cách hợp lý nguồn gốc; chưa hình sự hóa hành vi làm giàu bất chính.
Liên quan đến vấn đề xác định nguồn gốc tài sản để thực hiện việc tịch thu, thu hồi tiền, tài sản cho Nhà nước, hệ thống pháp luật hiện hành quy định nghĩa vụ chứng minh nguồn gốc tiền, tài sản thuộc về cơ quan có thẩm quyền (cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thanh tra). Quy định này của hệ thống pháp luật dẫn đến thực tế là hầu hết các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế người phạm tội luôn tìm thủ đoạn chuyển các tài sản liên quan đến tội phạm thành tài sản khó hoặc không thể xác định được nguồn gốc do phạm tội mà có và do đó, việc thu hồi tiền, tài sản rất khó thực hiện được.
Hiện nay, việc thu hồi tài sản tham nhũng phụ thuộc vào điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, đặc biệt là các tài sản mà cơ quan thi hành án dân sự có thể kê biên, xử lý để đảm bảo thi hành án. Vì vậy, để tiếp tục nâng cao hơn nữa hiệu quả hiệu lực công tác thu hồi tài sản sau xét xử, đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng phải chú ý đến việc xác minh, truy tìm tài sản ( kể cả trường hợp tài sản ở nước ngoài) của bị can, bị cáo để có biện pháp ngăn chặn việc tẩu tán, cất giấu tài sản trong điều kiện việc kiểm soát của Nhà nước đối với tài sản của cá nhân, tổ chức còn nhiều hạn chế.
Trong khi đó, các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 chưa chú trọng để có cơ chế làm rõ tài sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng để thu hồi. Cơ chế để bảo đảm thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong Bộ luật tố tụng hình sự còn yếu, chưa chặt chẽ . Đặc biệt, BLTTHS cũng chưa có quy định tăng cường các biện pháp điều tra, truy tìm tài sản bị tẩu tán, che giấu ngay từ giai đoạn điều tra. Tài sản bị tịch thu phải là tài sản liên quan trực tiếp đến tội phạm, trong khi trên thực tế, tài sản do tham nhũng mà có thường được cất giấu, che đậy, chuyển hình thức sở hữu ngay trong quá trình phạm tội, trước khi có quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
Ngoài ra, luật cũng chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm phối hợp của các cơ quan, tổ chức, đơn vị với cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, thu hồi tài sản tham nhũng trong các lĩnh vực như ngân hàng, tài chính, đất đai, thu hồi tài sản tham nhũng có yếu tố nước ngoài…
Một vấn đề nữa cũng cần được cơ quan chức năng sớm nghiên cứu đó là trường hợp qua hoạt động kiểm soát tài sản, thu nhập mà phát hiện tài sản, thu nhập đó có dấu hiệu từ hành vi tham nhũng, thì theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định cơ quan có thẩm quyền sẽ chuyển vụ việc cho cơ quan chức năng hoặc/và yêu cầu cơ quan chức năng hoặc cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật nhằm ngăn chặn việc tẩu tán, hủy hoại, chuyển dịch tài sản. Tuy nhiên Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 lại chưa có quy định về các biện pháp ngăn chặn khi phát hiện tài sản có dấu hiệu tham nhũng qua việc kiểm soát tiền, tài sản của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị. Bên cạnh đó, Luật cũng chưa có qui định giao quyền cho cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn cần thiết để ngăn ngừa việc tẩu tán, chuyển dịch hoặc hủy hoại tài sản.
4, Một số khó khăn vướng mắc về cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng
Pháp luật Việt Nam hiện đã có những quy định về các biện pháp, trình tự, thủ tục thu hồi tài sản có liên quan đến hành vi tham nhũng, kinh tế thông qua 02 cơ chế chủ yếu là: Thu hồi tài sản theo quyết định hành chính của người có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra khi có đủ căn cứ kết luận tiền bị chiếm đoạt, sử dụng trái phép hoặc bị thất thoát do hành vi vi phạm pháp luật gây ra theo quy định của pháp luật thanh tra; Thu tài sản liên quan đến tội phạm tham nhũng, kinh tế theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án. Các hình thức này được thực hiện thông qua cơ quan thi hành án dân sự; phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trách nhiệm chứng minh tội phạm và yêu cầu về bảo đảm quyền con người.
Toà nhà Union Square – Một trong những khối BĐS của Trương Mỹ Lan – Vạn Thịnh Phát tại TPHCM
Tuy nhiên, cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam hiện cũng đang có nhiều khó khăn, vướng mắc, hạn chế như chưa đồng bộ, chưa thống nhất hoặc có những điểm chưa thực sự phù hợp với các quy định của UNCAC (ví dụ Điều 54); nhiều vấn đề bất cập về biện pháp cần thiết kê biên, phong tỏa tài sản phòng chống việc người phạm tội và người thân của họ có đủ thời gian để che giấu hoặc tìm cách hợp pháp hóa thu nhập, tài sản bất hợp pháp, hoặc về tài sản do bị can, bị cáo chuyển ra nước ngoài và phải lập yêu cầu tương trợ tư pháp về hình sự, đề nghị quốc gia có liên quan kê biên, phong tỏa, tịch thu và trả lại cho nhà nước Việt Nam; phương thức thu hồi tài sản tham nhũng không qua kết án hình sự, đặc biệt là khởi kiện dân sự, chưa được chú trọng áp dụng….
“Cần cơ chế đặc biệt thu hồi tài sản vụ án Vạn Thịnh Phát”
Mới đây, tại hội nghị sơ kết 6 tháng đầu năm Tổng cục Thi hành án dân sự , ông Nguyễn Văn Hoà Cục trưởng Thi hành án dân sự TP HCM đề xuất cần cơ chế đặc biệt để thu hồi tài sản vụ án Vạn Thịnh Phát, trong đó có 1.600 bất động sản giá trị lớn. 23 mã cổ phiếu, cổ phần "giá trị đặc biệt lớn". Đa số bất động sản nằm tại TP HCM. Tính pháp lý của các tài sản và dự kiến tình huống xảy ra khi thi hành án cũng được tính đến. Bên cạnh tài sản, theo ông Hòa, số tiền trong vụ án cần thu hồi ước tính hơn 465.000 tỷ đồng, có 80% tại TP HCM.
Cho rằng khó khăn đầu tiên khi thu hồi tài sản trong đại án Vạn Thịnh Phát là các quy định còn chồng chéo, ông Hòa đề nghị các cơ quan sớm sửa đổi pháp luật thi hành án phù hợp thực tế, đảm bảo nhanh, hiệu quả...
Từ những hạn chế, bất cập khuyết thiếu của cơ chế, pháp luật như đã nêu trên, chúng tôi cho rằng cần sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy định về thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế, nhất là pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, dân sự, thi hành án dân sự, tố tụng dân sự, tương trợ tư pháp, giám định, định giá, … đảm bảo thống nhất, đồng bộ, tránh chồng chéo để nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
Một số kiến nghị hoàn thiện cơ chế, pháp luật
Thứ nhất, cần mở rộng tương trợ tư pháp trong phong tỏa tài khoản, kê biên, tịch thu tài sản tham nhũng. Bởi tại thời điểm hiện nay, tình hình tội phạm có yếu tố nước ngoài, đặc biệt là tội phạm xuyên quốc gia ngày càng gia tăng, tạo nên xu hướng rõ nét và thường xuyên đòi hỏi hợp tác quốc tế tư pháp hình sự.
Do đó, cần khẩn trương xây dựng Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, bảo đảm thực hiện hiệu quả tương trợ tư pháp trong thu hồi tài sản trong quá trình tố tụng giải quyết các vụ án hình sự tham nhũng, kinh tế và thi hành các bản án, quyết định hình sự về tham nhũng, kinh tế theo hướng: bổ sung các quy định tăng cường các biện pháp truy tìm, tạm giữ, kê biên, phong tỏa, tịch thu, xử lý tài sản do phạm tội tham nhũng, kinh tế mà người phạm tội đã tẩu tán ra nước ngoài; quy định trách nhiệm của cơ quan đầu mối tương trợ tư pháp (Viện kiểm sát nhân dân tối cao), trách nhiệm phối hợp thực hiện, cung cấp thông tin của các cơ quan liên quan (Thanh tra Chính phủ, Bộ Công an, Ngân hàng…).
Với tinh thần đó, vừa qua, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về đề nghị xây dựng Luật Tương trợ tư pháp về hình sự. Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ báo cáo rà soát và đề nghị tách luật thành 4 luật riêng gồm Luật Tương trợ tư pháp về dân sự, Luật Tương trợ tư pháp về hình sự, Luật Dẫn độ và Luật Chuyển giao người đang chấp hành án phạt tù.
Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao Nguyễn Quang Dũng trình bày tờ trình đề nghị xây dựng Luật Tương trợ tư pháp về hình sự
Liên quan đến phạm vi điều chỉnh, cơ quan soạn thảo đề xuất mở rộng phạm vi tương trợ tư pháp về hình sự theo hướng bổ sung những nội dung mới tương trợ. Như cho phép người tiến hành tố tụng của nước yêu cầu được có mặt trong quá trình thực hiện tương trợ tư pháp tại nước được yêu cầu; tổ chức cho người tại nước được yêu cầu đến nước yêu cầu để hỗ trợ điều tra hoặc cung cấp chứng cứ.
Đặc biệt, dự luật dự kiến mở rộng tương trợ tư pháp trong việc phong tỏa tài khoản, kê biên, thu giữ, tịch thu và xử lý tài sản do phạm tội mà có và công cụ, phương tiện phạm tội.
Ngoài ra, dự luật dự kiến quy định xử lý trường hợp nước ngoài đề nghị Nhà nước Việt Nam đưa ra cam kết không áp dụng hình phạt tử hình hoặc áp dụng nhưng không thi hành đối với yêu cầu tương trợ của Việt Nam liên quan đến tội phạm có khung hình phạt tử hình…
Thứ hai, nghiên cứu tăng cường các giải pháp phòng ngừa tham nhũng để giảm bớt thiệt hại, thất thoát về tài sản tham nhũng. Theo đó, kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Quy định các giao dịch có giá trị lớn của cán bộ, công chức, viên chức, người có chức vụ, quyền hạn phải được thực hiện thông qua ngân hàng để kiểm soát, ngăn ngừa giao dịch bất hợp pháp, rửa tiền, tham nhũng, đồng thời tạo dấu vết đồng tiền phục vụ cho việc truy nguyên, truy tìm, phong tỏa tài khoản khi xác định đó là tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế.
Thứ ba, khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự theo hướng : xử lý, thu hồi tài sản tăng thêm không giải trình được nguồn gốc và hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp; thiết kế bổ sung cơ chế, quy định nội dung chứng minh “đường đi” của tài sản bị chiếm đoạt là quy định bắt buộc phải chứng minh trong vụ án hình sự; cấm các giao dịch chuyển nhượng, tặng cho tài sản kể từ khi có quyết định bị thanh tra, kiểm tra, khởi tố; xây dựng thủ tục đặc biệt để thu hồi tài sản trong các vụ án tham nhũng, kinh tế; quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng, chấp hành viên trong việc áp dụng các biện pháp điều tra để truy nguyên tài sản phạm tội, phong tỏa, kê biên và bán đấu giá tài sản là tang vật của vụ án.
Thứ tư, quy định rõ thẩm quyền và các biện pháp ngăn chặn khi phát hiện tài sản có dấu hiệu tham nhũng qua việc kiểm soát tiền, tài sản của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Thứ năm, sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2014 theo hướng bổ sung quy định, cơ chế thi hành án đặc thù đối với khoản thu hồi tài sản trong các vụ án trong các vụ án tham nhũng, kinh tế; Quy định rõ trách nhiệm của Tòa án trong việc giải thích, đính chính bản án theo quy định của pháp luật; Quy định rõ trách nhiệm của cá nhân, tổ chức đại diện phần vốn góp của Nhà nước trong các tổ chức, doanh nghiệp phải thực hiện việc yêu cầu của cơ quan Thi hành án dân sự thi hành phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự liên quan đến kinh tế, tham nhũng; Bổ sung quy định trình tự, thủ tục về yêu cầu công nhận và cho thi hành tại nước ngoài phần dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Việt Nam đối với các vụ việc thi hành án chủ động; Quy định cụ thể tiêu chí phân loại nguyên nhân dẫn đến việc chưa có điều kiện; cơ chế thống kê, theo dõi phù hợp để xử lý căn cơ, toàn diện và nghiêm minh loại việc này; Nghiên cứu, bổ sung quy định của Viện kiểm sát nhân dân về kiểm sát việc bán đấu giá tài sản của các tổ chức bán đấu giá tài sản, vì hiện nay hợp đồng dịch vụ bán đấu giá tài sản thi hành án là hợp đồng dân sự nên Viện kiểm sát nhân dân chưa được quy định thẩm quyền kiểm sát.
Thứ sáu, hoàn thiện pháp luật về thanh tra, kiểm toán theo hướng quy định thẩm quyền của Thanh tra viên, Kiểm toán viên được áp dụng các biện pháp kê biên, phong tỏa tài sản trong quá trình thanh tra, kiểm toán nếu có căn cứ xác định có dấu hiệu tham nhũng; có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu về hồ sơ ngân hàng, tài chính, thương mại có liên quan đến người bị thanh tra, kiểm tra.
Nghiên cứu, xây dựng trình tự, thủ tục riêng (hoặc thủ tục rút gọn) về xử lý tài sản trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế, bởi vì việc thu hồi tài sản hiện nay áp dụng chung theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự nên còn bộc lộ một số bất cập; việc xử lý tài sản kéo dài, gây mất thời gian, chi phí khi tuân thủ các trình tự, thủ tục của cơ quan, tổ chức liên quan.
Thứ bảy, cần đẩy mạnh nghiên cứu các quy định, hướng dẫn của các tổ chức quốc tế và kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Theo đó cần tích cực ký kết, tham gia các điều ước quốc tế song phương/đa phương về thu hồi tài sản tham nhũng và các hoạt động liên quan khác, nhất là cơ chế tương trợ tư pháp về hình sự giữa các quốc gia trong việc phong tỏa, thu hồi tài sản của người phạm tội đã tẩu tán ở nước ngoài; Chủ động phối hợp với các tổ chức quốc tế và các cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài để xác minh, truy tìm và xử lý tài sản do phạm tội mà có đang ở nước ngoài.
Đồng thời tích cực thực hiện có hiệu quả các Hiệp định, thỏa thuận quốc tế có nội dung liên quan đến thu hồi tài sản tham nhũng mà Việt Nam đã ký kết, trong đó có hoạt động nội luật hóa cam kết quốc tế, chú trọng sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về sử dụng đa dạng các phương thức thu hồi tài sản tham nhũng theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam.
Ảnh minh hoạ
Thứ tám, nghiên cứu vận dụng các cơ chế thu hồi tài sản thông qua hợp tác quốc tế . Theo đó, Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu vận dụng các cơ chế thu hồi tài sản thông qua hợp tác quốc tế, yêu cầu các quốc gia thành viên áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn, tạm giữ, tịch thu và hoàn trả tài sản tham nhũng như: (1) Cơ chế đảm bảo hiệu lực trực tiếp của các lệnh phong toả hoặc tịch thu do toà án của một quốc gia thành viên khác ban hành; (2) Cơ chế tịch thu tài sản không dựa trên phán quyết của toà án, đặc biệt trong các trường hợp người phạm tội đã chết, lẩn trốn hoặc vắng mặt, hoặc trong các trường hợp khác; (3) Cơ chế khởi kiện vụ án dân sự bởi một quốc gia thành viên khác, cho phép quốc gia thành viên đó thu hồi tài sản với tư cách là nguyên đơn; (4) Cơ chế tịch thu tài sản có nguồn gốc từ nước ngoài thông qua xét xử tội rửa tiền hoặc các tội danh khác; (5) Cơ chế lệnh của toà án về bồi thường thiệt hại cho một quốc gia thành viên khác và toà án công nhận quốc gia thành viên khác đó là chủ sở hữu hợp pháp của tài sản có được từ tham nhũng; (6) Cơ chế chủ động công khai thông tin với một quốc gia thành viên khác mà không cần phải có yêu cầu của quốc gia thành viên đó; (7) Cơ chế hợp tác quốc tế và hoàn trả tài sản
Thứ chín, cần tham khảo kinh nghiệm của một số nước như Thuỵ Sĩ, Australia, Hoa Kỳ, Trung Quốc…..trong công tác hoàn thiện cơ chế, pháp luật thu hồi tài sản tham nhũng.
Thụy Sĩ là quốc gia ít tham nhũng nhất nhờ thực hiện hiệu quả Đạo luật Trả lại tài sản bất hợp pháp năm 2010. Thụy Sĩ là quốc gia tiêu biểu sử dụng biện pháp thu hồi tài sản bằng thủ tục hành chính, theo Đạo luật trả lại tài sản bất hợp pháp năm 2010, Luật Tương trợ tư pháp quốc tế. Cách thức tịch thu tài sản thông qua thủ tục hành chính được áp dụng rộng rãi, thu được nhiều kết quả tích cực (nhanh và giảm thiểu các chi phí) đối với chủ sở hữu hợp pháp, hoặc người chiêm hữu trước khi giữ đã bỏ tài sản bị thu giữ. Các mệnh lệnh hành chính và các biện pháp tương tự có thể đóng băng tài sản trước khi có yêu cầu chính thức đầy đủ, bô sung cho quy trình tương trợ tư pháp.
Australia tịch thu tài sản không giải thích được và tịch thu dân sự căn cứ vào Đạo luật Tài sản phạm tội năm 2002 (Proceeds of Crime Act 2002) với 02 hình thức thu hồi tài sản không qua thủ tục kết tội, do tòa án quyết định là: tịch thu tài sản không giải thích được và tịch thu dân sự. Hình thức thu hồi theo biện pháp kiện dân sự được áp dụng theo quy trình rất chặt chẽ và minh bạch.
Ở Hoa Kỳ, thu hồi lợi ích có được từ các hành vi sai trái hoặc làm giàu bất hợp pháp thường được Uy ban Tỷ giá và Chứng khoán và Bộ Tư pháp tiến hành qua các vụ kiện dân sự hoặc vụ án hình sự nhằm thực thi Luật Chống các hành vi tham nhũng nước ngoài. Hình thức khởi kiện dân sự để thu hồi tài sản tham nhũng gồm: Khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại; Khởi kiện dựa trên tính vô hiệu của hợp đồng; Khởi kiện khẳng định quyền sở hữu đối với tài sản; trong đó, hình thức khởi kiện dựa trên tính vô hiệu của hợp đồng được dựa trên căn cứ rằng, hợp đồng có được là do gian lận và sự đồng thuận bị tác động bởi tham nhũng.
Trung Quốc vận dụng hiệu quả thủ tục tịch thu đặc biệt và hợp tác tương trợ tư pháp quốc tế. Quốc gia đông dân nhất hành tinh này áp dụng 03 hình thức thu hồi tài sản tham nhũng, gồm: tự nguyện hoàn trả, thủ tục tịch thu đặc biệt và hợp tác tương trợ tư pháp quốc tế.
Công việc khó khăn này được giao Ủy ban Giám sát Quốc gia (NSC) – được mệnh danh là cơ quan “siêu quyền lực” của Trung Quốc trong công tác chống tham nhũng. Cơ quan này chỉ chịu sự giám sát duy nhất từ Quốc hội, có vị thế gần bằng Nội các, cao hơn Tòa án Tối cao và Văn phòng Công tố Tối cao.
Để cho ra đời một “siêu ủy ban”, Trung Quốc không chỉ sửa đổi Hiến pháp mà còn sửa đổi Luật Hình sự và Luật Giám sát để phù hợp với chức năng đặc biệt của “siêu ủy ban”. Theo đó điều 383 Bộ Luật Hình sự sửa đổi Trung Quốc quy định: “Trước khi bị khởi tố, bất kỳ ai phạm tội tham nhũng nếu thành khẩn khai nhận và chủ động trả lại tài sản bất minh sẽ được giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt tùy theo mức độ nghiêm trọng của vụ án”; . Đáng chú ý là Trung Quốc còn sửa đổi Luật Tố tụng hình sự, bổ sung thêm các thủ tục tịch thu tài sản đặc biệt trong trường hợp nghi phạm hoặc bị cáo bỏ trốn hay qua đời. Luật Hỗ trợ tư pháp hình sự quốc tế của Trung Quốc được ban hành năm 2018 đã thúc đẩy hợp tác giữa Trung Quốc và các quốc gia khác để thu hồi tài sản bị đánh cắp.
Lê Phúc - Minh Anh