Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng trong thiết chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam

Cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng là những quá trình được thiết lập và vận hành nhằm nhận diện, phòng ngừa tham nhũng từ sớm, từ xa và xử lý triệt để tham nhũng cả “ngọn” lẫn “gốc”, không có ngoại lệ, không có vùng cấm. Ở Việt Nam, các cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng được thiết lập bởi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, được triển khai trong cả hệ thống chính trị, trong doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước và toàn xã hội. Việc tập trung làm rõ những cơ chế được vận hành bởi các thiết chế quyền lực nhà nước, với quan điểm “phòng ngừa là chính, cơ bản, lâu dài” có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta.

Kỳ 1: Cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng trong thiết chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam: Thực trạng và những điểm nghẽn cần tháo gỡ

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng trong thiết chế quyền lực nhà nước ở Việt Nam đã từng bước được hoàn thiện, triển khai thực hiện quyết liệt và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, thực tiễn vận hành các cơ chế này cũng bộc lộ một số điểm nghẽn đòi hỏi phải được nhận diện để có phương án xử lý, tháo gỡ kịp thời.

Thực trạng thiết lập và vận hành các cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng

Thời gian qua, nhất là từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế về phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng được đẩy mạnh, từng bước hình thành cơ chế chặt chẽ để “không thể tham nhũng”. Nhiều văn bản của Đảng, Nhà nước về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, quản lý kinh tế - xã hội, phòng, chống tham nhũng được ban hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc, vừa để phòng ngừa, giáo dục, ngăn chặn, vừa là căn cứ để phát hiện, xử lý tham nhũng. Đặc biệt, từ năm 2012 đến nay, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành khoảng 250(1) văn bản có liên quan đến vấn đề này. Trong đó, có thể kể đến các văn bản tiêu biểu, như: Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 21/8/2006, của Hội nghị Trung ương 3 khóa X, Kết luận số 10-KL/TW, ngày 26/12/2016 và Kết luận số 12-KL/TW, ngày 06/4/2022, của Bộ Chính trị, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Quy định số 85-QĐ/TW, ngày 23/5/2017, của Bộ Chính trị, “Về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”; Quy định số 102-QĐ/TW, ngày 15/11/2017, của Bộ Chính trị, về “Xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm”; Chỉ thị số 27-CT/TW, ngày 10/01/2019, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo vệ người phát hiện, tố giác, người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực”; Quy định số 11-QĐi/TW, ngày 18/02/2019, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân”; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23/9/2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”; Chỉ thị số 04-CT/TW, ngày 02/6/2021, của Ban Bí thư, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thu hồi tài sản bị thất thoát, chiếm đoạt trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế”; Quy định số 110-QĐ/TW, ngày 06/7/2023, của Ban Bí thư, “Về luân chuyển cán bộ trong ngành kiểm tra Đảng”; Quy định số 14-QĐ/TW, ngày 11/7/2023, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ”; Quy định số 131-QĐ/TW, ngày 27/10/2023, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật Đảng và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán”; Quy định số 132-QĐ/TW, ngày 27/10/2023, của Bộ Chính trị, “Về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án”. 

1-1703564757.jpg

Toàn cảnh Cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng, đẩy nhanh tiến độ xây dựng, hoàn thiện pháp luật, thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các quan điểm, chủ trương của Đảng về quản lý kinh tế - xã hội và phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng, qua đó từng bước hạn chế nguyên nhân phát sinh tiêu cực, tham nhũng, “lợi ích nhóm”. Giai đoạn 2013-2020, Quốc hội sửa đổi, bổ sung, ban hành mới 259 luật, pháp lệnh, nghị quyết, trong đó có Luật Phòng, chống tham nhũng, Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Hình sự, Luật Giám định tư pháp, Luật Tố cáo, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Tiếp cận thông tin... Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 1.172 nghị định, 966 nghị quyết, 488 quyết định; các bộ, ngành, địa phương ban hành gần 88.000 văn bản để triển khai thực hiện chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng(2).

Pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công không ngừng được hoàn thiện, bảo đảm cơ chế pháp lý đồng bộ cho việc quản lý và sử dụng tài sản công, góp phần thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, đấu tranh và xử lý hành vi vi phạm trong quản lý, sử dụng ngân sách, vốn và tài sản nhà nước, cũng như trong quản lý, sử dụng tài nguyên... Chẳng hạn, Luật Ngân sách nhà nước được sửa đổi năm 2015 nâng cao tính minh bạch, công khai, tiết kiệm, hiệu quả trong quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước; tăng cường kiểm soát chặt chẽ chi ngân sách nhà nước nhằm kịp thời phát hiện, xử lý các sai phạm, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng. Hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước(3), quản lý tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được bổ sung, sửa đổi(4), nhằm bảo đảm sự công khai, minh bạch và giám sát chặt chẽ mọi hoạt động trong đầu tư và quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, góp phần phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng. Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 phân định chức năng, quyền hạn và trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu nhà nước trong hoạt động quản lý, sử dụng vốn nhà nước; quy định rõ những hành vi bị cấm và chế tài xử lý trong lĩnh vực quản lý, sử dụng vốn nhà nước; quy định về trách nhiệm giám sát của Quốc hội, trách nhiệm công khai thông tin của cơ quan đại diện chủ sở hữu của doanh nghiệp về doanh nghiệp nhà nước, của doanh nghiệp nhà nước với công chúng. Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 quy định việc quản lý, sử dụng tài sản công phải được thực hiện công khai, minh bạch, bảo đảm thực hành tiết kiệm, phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng; nếu để xảy ra vi phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị mình, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm giải trình, có thể bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật (Điều 11)…

Đặc biệt, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đưa ra nhiều quy định mới, xây dựng được cơ chế phòng ngừa tham nhũng toàn diện và sâu rộng hơn; cơ chế phát hiện, xử lý tham nhũng được quy định cụ thể, rõ ràng, với hình thức xử lý nghiêm khắc hơn; mở rộng áp dụng một số biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước; tăng cường công tác phối hợp trong hoạt động của các cơ quan có chức năng phòng, chống tham nhũng như thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án...

Pháp luật hình sự không ngừng được hoàn thiện trên cơ sở quán triệt, thể chế hóa chủ trương “đề cao hiệu quả phòng ngừa, xử lý nghiêm người phạm tội tham nhũng”; “khắc phục tình trạng hình sự hóa quan hệ kinh tế, dân sự hoặc tình trạng bỏ lọt tội phạm”. Pháp luật về tố tụng hình sự, về giám định tư pháp, về luật sư... cũng tiếp tục được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử tội phạm tham nhũng, bảo đảm đúng người, đúng tội, tránh oan sai. Trong tố tụng hình sự, đã quy định một số biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt có thể áp dụng đối với tội phạm về tham nhũng; thời hạn giám định cũng được sửa đổi, quy định cụ thể để khắc phục tình trạng giám định kéo dài, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, nhất là đối với các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp.

Có thể nói, hệ thống chính sách, pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng và quản lý kinh tế - xã hội ở nước ta đến nay, về cơ bản, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, công khai, minh bạch, khả thi, phù hợp với thực tiễn và xu thế hội nhập quốc tế. Qua đó, tạo hành lang pháp lý ngày càng hoàn thiện, chặt chẽ và là cơ sở thiết lập, tổ chức vận hành các cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng từ sớm, từ xa. Trên cơ sở chính sách, pháp luật hiện hành cùng thực tiễn phòng, chống tham nhũng ở nước ta thời gian qua, có thể khái quát thực trạng việc vận hành các cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng trong thiết chế quyền lực nhà nước như sau:

Thứ nhất, minh bạch hóa tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức.

Minh bạch hóa tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức là một trong những cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng quan trọng, được Đảng và Nhà nước ta quan tâm xây dựng và lãnh đạo, chỉ đạo triển khai(5), được các cấp ủy, bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện nghiêm túc. Trong một vài năm đầu, việc thực hiện công tác này vẫn chưa đồng đều, có nơi còn chậm hoặc gặp vướng mắc, khó khăn do nhận thức của các cấp, các ngành chưa thật nhất quán, chưa thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác này. Đến nay, khi pháp luật về minh bạch hóa tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức được bổ sung, hoàn thiện, việc thực hiện công tác này đã có những tiến bộ rõ rệt và dần đi vào nền nếp.

 Hầu hết đối tượng thuộc diện kê khai đã kê khai tài sản, thu nhập theo quy định, thể hiện được trách nhiệm của mình trong việc thực hiện các quy định về minh bạch hóa tài sản, thu nhập. Việc kê khai tài sản, thu nhập dần trở thành hoạt động bình thường, tâm lý e ngại khi phải kê khai tài sản, thu nhập từng bước được khắc phục; bước đầu hình thành tài liệu về bản kê khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, chịu sự giám sát của cơ quan, tổ chức, phục vụ công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức và đảng viên, góp phần phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng. Theo thống kê, cuối năm 2022, có 60.458 người kê khai tài sản, thu nhập lần đầu; 545.535 người kê khai tài sản, thu nhập hằng năm; 44.015 người kê khai bổ sung; 161.928 người kê khai tài sản, thu nhập phục vụ công tác cán bộ; 655.299 người đã được công khai bản kê khai tài sản, thu nhập. Từ ngày 8-2-2022 đến ngày 30-4-2023, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành xác minh tài sản, thu nhập của 13.093 người, phát hiện 2.664 người có sai sót về kê khai sai mẫu, chưa bảo đảm theo hướng dẫn, không đầy đủ thông tin, chậm thời hạn so với quy định… Đặc biệt, các cơ quan đã xử lý 54 người do không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập và giải trình nguồn gốc tài sản tăng thêm (xóa tên khỏi danh sách ứng cử, kỷ luật bằng hình thức cảnh cáo hoặc cách chức,…)(6).

Thứ hai, chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức.

Đây là cơ chế phòng ngừa tham nhũng được quy định trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và Nghị định số 59/2019/NĐ-CP, ngày 01/7/2019, của Chính phủ, về “Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng”. Gần đây, Ban Bí thư có Quy định số 110-QĐ/TW, ngày 06/7/2023, “Về luân chuyển cán bộ trong ngành kiểm tra Đảng”… Theo đó, nhằm phòng ngừa việc cán bộ công tác tại một vị trí, một bộ phận quá lâu có thể nắm bắt được những sơ hở của cơ chế, chính sách trong lĩnh vực mình công tác, quản lý để lợi dụng, móc ngoặc, thông đồng với đối tượng bị quản lý thực hiện hành vi tham nhũng, tiêu cực.

Trong thời gian đầu, việc thực hiện chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức vẫn chưa thật thường xuyên, có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, thiếu sự kiểm tra, thanh tra. Ở một số ngành, lĩnh vực, địa bàn, việc triển khai gặp nhiều khó khăn do các quy định chưa thật sát với đặc điểm, tình hình, cần được xem xét, điều chỉnh. Đến nay, việc chuyển đổi vị trí công tác, về cơ bản, bảo đảm tính khách quan, phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ; không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của địa phương, cơ quan, đơn vị và phát huy được tác dụng thiết thực trong phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng. Cán bộ, công chức, viên chức thuộc diện chuyển đổi phát huy được sự năng động, sáng tạo, nắm bắt được tình hình, đặc điểm địa bàn, lĩnh vực quản lý; công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chuyển đổi vị trí công tác được chú trọng... Giai đoạn 2013-2020, các địa phương, cơ quan, đơn vị đã tiến hành chuyển đổi hơn 142.000 vị trí công tác để phòng ngừa tham nhũng. Riêng năm 2020, các ngành tiến hành chuyển đổi vị trí công tác đối với 17.905 cán bộ, công chức, viên chức (tăng 50,8% so với năm 2019)(7). Từ ngày 01/10/2022 đến ngày 30/9/2023, các cấp, các ngành tiến hành chuyển đổi vị trí công tác của 45.192 lượt cán bộ, công chức, viên chức nhằm phòng ngừa tham nhũng(8).

Thứ ba, xây dựng và thực hiện các quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp.

Chính phủ, các bộ(9), ngành, địa phương chủ động xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi nhiệm vụ, công vụ, nhất là khi tiếp xúc, giải quyết yêu cầu của người dân, doanh nghiệp. Đồng thời, tăng cường kiểm tra việc thực hiện quy tắc ứng xử tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị để chấn chỉnh sai phạm.

Các quy định về tặng quà, nộp lại quà tặng cũng được hoàn thiện và triển khai thực hiện nghiêm túc nhằm ngăn ngừa tình trạng lợi dụng truyền thống tốt đẹp để đưa hối lộ, tham nhũng. Khắc phục những hạn chế trong quá trình thực hiện các quy định này do thiếu chế tài khả thi và sự khó kiểm soát vì phụ thuộc nhiều vào tính tự giác, đạo đức của cán bộ, công chức, viên chức, Chính phủ đã rà soát, ban hành quy định mới về tặng quà, nhận quà, nộp lại quà tặng. Theo đó, người có chức vụ, quyền hạn không được trực tiếp hoặc gián tiếp nhận quà tặng của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân dưới mọi hình thức nếu có liên quan đến công việc do mình giải quyết hoặc thuộc phạm vi quản lý của mình. Người vi phạm quy định về nhận, tặng quà sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản nhà nước(10).

 Thực tế kiểm tra việc thực hiện quy tắc ứng xử thời gian qua cho thấy, còn có những cán bộ, công chức, viên chức vi phạm quy tắc ứng xử khi tiếp xúc, giải quyết công việc của người dân, một số vụ việc gây bức xúc trong dư luận; có công chức, viên chức giữ vị trí lãnh đạo, quản lý tham gia kinh doanh hoặc để người thân trong gia đình kinh doanh trong lĩnh vực do mình trực tiếp lãnh đạo, quản lý, thậm chí bổ nhiệm, đề bạt người thân vào các vị trí lãnh đạo, quản lý khi chưa đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định. Chỉ tính riêng năm 2020, các bộ, ngành, địa phương đã tiến hành kiểm tra việc thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức tại 4.646 cơ quan, tổ chức, đơn vị (tăng 58,9% so với năm 2019); phát hiện, chấn chỉnh các sai phạm và xử lý 192 cán bộ, công chức, viên chức vi phạm quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp (trong đó có 8 trường hợp bị đình chỉ, tạm đình chỉ việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao do có xung đột lợi ích; có 3 trường hợp nộp lại quà tặng theo quy định, trị giá 31,8 triệu đồng); phát hiện 1 cơ quan nhận quà tặng không đúng quy định, thu hồi số tiền vi phạm là 210 triệu đồng(11). Từ ngày 01/10/2022 đến ngày 30/9/2023, các bộ, ngành, địa phương đã kiểm tra việc thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức tại 8.211 cơ quan, tổ chức, đơn vị; phát hiện, chấn chỉnh các sai phạm và xử lý 938 cán bộ, công chức, viên chức vi phạm (tăng 109% so với năm 2022)(12).

 Thứ tư, xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình phụ trách.

Giai đoạn 2006-2015, Luật Phòng, chống tham nhũng đã có quy định về xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để thực hiện cơ chế này trong phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng. Tuy nhiên, số người đứng đầu bị xử lý còn ít so với số vụ việc tham nhũng được phát hiện, xử lý; một số vụ án lớn vẫn chưa được quy trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu. Theo đó, cả nước chỉ có 918 người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu bị xử lý do thiếu trách nhiệm mà để xảy ra tham nhũng, trong đó xử lý hình sự 118 trường hợp và xử lý kỷ luật 800 trường hợp(13).

Từ năm 2016 đến nay, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã tăng cường xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị mà họ quản lý, phụ trách, nhờ đó, vai trò, trách nhiệm, sự gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp trong phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng từng bước được nâng lên. Năm 2020, có 82 người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu bị kết luận thiếu trách nhiệm để xảy ra tham nhũng, trong đó có 69 người bị xử lý kỷ luật và 12 người bị xử lý hình sự(14). Từ ngày 01/10/2022 đến ngày 30/9/2023, có 55 người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu bị kết luận là thiếu trách nhiệm để xảy ra hành vi tham nhũng; trong đó có 13 người bị xử lý hình sự và 42 người bị xử lý kỷ luật do thiếu trách nhiệm để xảy ra hành vi tham nhũng (khiển trách: 16 người, cảnh cáo: 13 người, cách chức: 13 người)(15).

Thứ năm, cải cách hành chính, ứng dụng khoa học và công nghệ trong công tác quản lý; công khai, minh bạch hóa hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị.

Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng khoa học và công nghệ trong công tác quản lý; qua đó, vừa tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, vừa góp phần phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng. Việc công khai, minh bạch và thực hiện trách nhiệm giải trình trong tổ chức, hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhất là trong các lĩnh vực dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng có chuyển biến tích cực. Phân tích kết quả chỉ số hiệu quả quản trị hành chính công cấp tỉnh (PAPI) tổng hợp từ các chỉ tiêu không thay đổi qua 10 năm (2011-2021) cho thấy, hiệu quả quản trị và hành chính công ở cấp quốc gia có xu hướng cải thiện từ năm 2016. Năm 2020, chỉ số về hiệu quả kiểm soát tham nhũng trong khu vực công và thực hiện trách nhiệm giải trình với người dân được cải thiện đáng kể.

Công tác cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán có tiến bộ ở hầu hết các cấp chính quyền, nhất là từ sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP, ngày 08/11/2011, về “Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020”. Việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong quản lý, nhất là trong tiếp nhận và giải quyết thủ tục hành chính được tăng cường. Đến nay, Chính phủ đã triển khai cổng dịch vụ công quốc gia; ở các địa phương, ngoài một số tỉnh, thành phố đông dân và có địa bàn rộng như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh vẫn có bộ phận “một cửa” tại các sở, ban, ngành, hầu hết các địa phương khác đều gom về một địa chỉ, tập trung ở cấp tỉnh là trung tâm phục vụ hành chính công để người dân không phải đến từng sở, ngành làm thủ tục hành chính(16).

Việc thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và đạt những kết quả tích cực. Qua đó, bảo đảm để các hoạt động tài chính - ngân sách, tổ chức cán bộ, quy hoạch, xây dựng, chính sách xã hội, đất đai, thanh tra... được thông tin kịp thời, chính xác, rõ ràng, đầy đủ, đúng quy định. Kịp thời, chủ động công bố thông tin, cung cấp thông tin cho báo chí về những vụ việc được dư luận xã hội quan tâm. Đặc biệt, kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng được công bố, công khai theo đúng quy định của pháp luật. Các bộ, ngành, địa phương còn đăng tải văn bản, thông tin về cơ chế, chính sách trên cổng thông tin điện tử, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp, các cơ quan, tổ chức nắm bắt thông tin và giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước.

Thứ sáu, giám sát, thanh tra và kiểm toán.

Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp đã quan tâm, tăng cường giám sát công tác phòng, chống tham nhũng, đặc biệt là ở các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng. Công tác thanh tra, kiểm toán được triển khai tương đối toàn diện, qua đó kiến nghị xử lý nghiêm các sai phạm. Thông qua thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, đã kịp thời phát hiện, xử lý, kiến nghị xử lý nhiều vụ việc, đối tượng tham nhũng hoặc liên quan đến tham nhũng.

Những năm qua, nhiều dự án, vụ việc gây thất thoát, thua lỗ lớn, dư luận xã hội quan tâm đã được Thanh tra Chính phủ tiến hành thanh tra toàn diện. Kiểm toán nhà nước tập trung kiểm toán việc thu, chi từ ngân sách nhà nước, nhất là ở những lĩnh vực tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, đồng thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế nhiều văn bản pháp luật và kiến nghị xử lý nhiều tập thể, cá nhân sai phạm… Kết quả của công tác thanh tra, kiểm toán là tiền đề quan trọng để các cơ quan tố tụng tiến hành khởi tố, điều tra, xét xử nhiều vụ án tham nhũng phức tạp thời gian qua.

 Những điểm nghẽn cần tháo gỡ

Trong xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật về phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng: Cơ chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội còn thiếu chặt chẽ, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, chưa phù hợp với thực tiễn, tính ổn định và khả năng dự báo chưa cao. Một số văn bản luật phải sửa đổi nhiều lần sau thời gian ngắn thực thi. Chẳng hạn, Luật Đầu tư năm 2014 chỉ trong 5 năm đã phải sửa đổi, bổ sung đến 6 lần; Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung khi chưa có hiệu lực, kéo theo việc phải lùi hiệu lực thi hành của bộ luật này cùng 1 bộ luật và 2 luật khác có liên quan (Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự và Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam). Trong khi đó, một số quy định còn sơ hở, chồng chéo, dễ bị lợi dụng để thực hiện hành vi tham nhũng nhưng lại chậm được sửa đổi, bổ sung, nhất là trên các lĩnh vực: quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản; đấu thầu; đầu tư, mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản công; quản lý doanh nghiệp nhà nước và vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Các quy định về công khai, minh bạch còn thiếu cụ thể về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Bộ Luật hình sự chưa quy định về xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm khi không giải trình được một cách hợp lý nguồn gốc; chưa hình sự hóa hành vi làm giàu bất chính. Quy định về vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức, đơn vị trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành công việc nói chung, trong phòng ngừa, ngăn chặn tham nhũng nói riêng còn mang tính nguyên tắc, chưa quy định rõ chế tài xử lý trách nhiệm đối với trường hợp người đứng đầu không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao, để xảy ra tham nhũng trong phạm vi mình quản lý, phụ trách. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa có cơ chế đủ mạnh để phát hiện, xử lý “lợi ích nhóm”, “tham nhũng chính sách” trong hoạt động xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật...

Trong kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người có chức vụ, quyền hạn: Mặc dù việc kê khai, công khai, kiểm soát, kiểm tra, xác minh tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức đã dần đi vào nền nếp, song vẫn chưa có đủ cơ sở để cho rằng đã phản ánh thực chất tài sản, thu nhập của những người có nghĩa vụ kê khai; chưa giúp cho các cơ quan chức năng kiểm soát được những biến động về tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn. Nguyên nhân chủ yếu là do sự tự giác và tính trung thực của người kê khai chưa cao; mặt khác, chưa có biện pháp kiểm soát tài sản và thu nhập của toàn xã hội.

Công tác quản lý và theo dõi việc kê khai, công khai, xác minh về tài sản, thu nhập chưa có tính hệ thống; còn nhiều vướng mắc về trình tự, thủ tục công khai bản kê khai, giải trình, xác minh tài sản, thu nhập khi có yêu cầu. Hiện nay, bản kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức vẫn chưa được quy định rõ về mục đích sử dụng là nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng. Thu nhập ngoài lương còn khá phổ biến nhưng chưa có cơ chế để kiểm soát một cách triệt để. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm soát các giao dịch về tài sản, kiểm soát thu nhập còn hạn chế; thiếu các chế tài về việc xử lý tài sản, thu nhập không được giải trình một cách hợp lý và thời hạn người kê khai tài sản, thu nhập có nghĩa vụ giải trình về tài sản, thu nhập… Do đó, số vụ việc phát hiện tham nhũng qua kê khai tài sản, thu nhập hoặc xử lý đối với các trường hợp kê khai thiếu trung thực còn rất ít.

Trong chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức: Việc chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 vẫn còn nhiều vướng mắc, do nhận thức và phương pháp, cách làm chưa thật nhất quán; cá biệt có cơ quan, đơn vị còn thực hiện lẫn lộn giữa chuyển đổi vị trí công tác với điều động, luân chuyển cán bộ, gây xáo trộn tổ chức hoặc lợi dụng chủ trương chuyển đổi vị trí công tác để trù dập, điều chuyển cán bộ đang làm tốt ở nơi này sang nơi khác không phù hợp với năng lực, sở trường, chuyên môn nghiệp vụ của họ. Trong khi đó, vẫn chưa có quy định và thiếu kiên quyết điều chuyển, thay thế những cán bộ khi có biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, uy tín thấp. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc; chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được chú trọng; thanh tra, kiểm tra, giám sát về cán bộ và công tác cán bộ còn hạn chế…

Trong xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình phụ trách: Những năm gần đây, việc xử lý trách nhiệm người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng ở địa phương, cơ quan, đơn vị mà họ phụ trách vẫn còn ít. Thực trạng này là do vẫn chưa có sự tách bạch giữa việc xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham nhũng ở địa phương, cơ quan, tổ chức do họ quản lý, phụ trách với việc xử lý người đứng đầu do bản thân họ trực tiếp thực hiện hành vi tham nhũng. Năm 2023, chỉ có 39 người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu bị kết luận là thiếu trách nhiệm để xảy ra hành vi tham nhũng, trong đó có 11 người bị xử lý hình sự và 28 người bị xử lý kỷ luật do thiếu trách nhiệm để xảy ra hành vi tham nhũng(17).

Trong giám sát, thanh tra, kiểm toán: Sự phối hợp công tác giữa các cơ quan thanh tra, kiểm toán, công an, viện kiểm sát, tòa án… có lúc, có việc còn thiếu chặt chẽ, chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao. Công tác phát hiện tội phạm về tham nhũng của cơ quan thanh tra chuyển sang cơ quan điều tra để xác minh, xử lý hình sự còn ít. Hiện tượng chồng chéo trong hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán vẫn tồn tại... 

    (1) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 30

    (2) Xem: “Kết quả công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013 - 2020”, https://noichinh.vn/tin-tuc-su-kien/tin-trung-uong/202102/ket-qua-cong-tac-phong-chong-tham-nhung-giai-doan-2013-2020-309186/

    (3) Như: Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014 được sửa đổi, bổ sung năm 2018; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 được sửa đổi, bổ sung bởi Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư năm 2020…

    (4) Như: Luật Doanh nghiệp năm 2014, sau đó là Luật Doanh nghiệp năm 2020; Nghị định số 81/2015/NĐ-CP, ngày 18-9-2015, của Chính phủ, “Về công bố thông tin của doanh nghiệp nhà nước”, sau đó là Nghị định số 47/2021/NĐ-CP, ngày 1-4-2021, của Chính phủ, “Quy định chi tiết một số điều của Luật Doanh nghiệp”; Nghị định số 87/2015/NĐ-CP, ngày 6-10-2015, của Chính phủ, “Về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp; giám sát tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước”; Nghị định số 97/2015/NĐ-CP, ngày 19-10-2015, của Chính phủ, “Về quản lý người giữ chức danh, chức vụ tại doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”; Nghị định số 126/2017/NĐ-CP, ngày 16-11-2017, của Chính phủ, “Về chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần” được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 140/2020/NĐ-CP, ngày 30-11-2020, của Chính phủ...

    (5) Được khẳng định và cụ thể hóa trong các văn bản: Chỉ thị số 33-CT/TW, ngày 3-1-2014, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc kê khai và kiểm soát việc kê khai tài sản”; Quy định số 85-QĐ/TW, ngày 23-5-2017, của Bộ Chính trị, “Về kiểm tra, giám sát việc kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”; các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập trong Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 và được sửa đổi bởi Luật Doanh nghiệp năm 2020; Nghị định số 130/2020/NĐ-CP, ngày 30-10-2020, của Chính phủ, “Về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị”

    (6) Xem: Hương Giang: “Phó Tổng Thanh tra làm rõ số cán bộ bị xử lý do kê khai tài sản, thu nhập không trung thực”, https://thanhtra.com.vn/phong-chong-tham-nhung/ho-so-tu-lieu/pho-tong-thanh-tra-lam-ro-so-can-bo-bi-xu-ly-do-ke-khai-tai-san-thu-nhap-khong-trung-thuc-214668.html

    (7), (11), (14) Xem: Báo cáo số 525/BC-CP, ngày 14-10-2020, của Chính phủ, “Về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2020”

    (8),(12),(15) Xem: Vy Anh: “42 người đứng đầu, cấp phó bị xử lý kỷ luật do để xảy ra tham nhũng”, https://dangcongsan.vn/phap-luat/42-nguoi-dung-dau-cap-pho-bi-xu-ly-ky-luat-do-de-xay-tham-nhung-650094.html

    (9) Như: Bộ Nội vụ, Bộ Công an, Kiểm toán Nhà nước, Bộ Tư pháp, Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia…

    (10) Xem: Nghị định số 59/2019/NĐ-CP, ngày 1-7-2019, của Chính phủ, “Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham nhũng”

    (13) Xem: Báo cáo số 330/BC-CP, ngày 22-9-2016, của Chính phủ, “Về tổng kết 10 năm thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng”

    (16) Xem: Hoàng Giang: “Tập trung đầu mối giải quyết thủ tục hành chính”, https://vpcp.chinhphu.vn/tap-trung-dau-moi-giai-quyet-thu-tuc-hanh-chinh-115221123150914467.htm

    (17) Xem: Hải Yến: “Cần sớm ban hành Bộ tiêu chí đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đối với bộ, ngành Trung ương”, https://quochoi.vn/tintuc/Pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?ItemID=79579

TS. Lê Khánh Ly - Đàm Văn Lợi 

(Tạp chí Cộng sản - Tổng Biên tập Tạp chí Nội chính, Ban Nội chính Trung ương)

Theo tapchicongsan.org.vn

Link nội dung: https://phaply.net.vn/hoan-thien-co-che-phong-ngua-ngan-chan-tham-nhung-trong-thiet-che-quyen-luc-nha-nuoc-o-viet-nam-a257736.html