Những điểm mới trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết khái quát quá trình nhận thức của Đảng về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam thể hiện trong các Văn kiện Đại hội qua các thời kỳ. Đặc biệt, bài viết tập trung làm rõ một số điểm mới nổi bật của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII về vấn đề này, qua đó thấy được những giá trị trong nhận thức lý luận cũng như định hướng thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời gian tới.

221108-08-1684465259.jpg

Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra vào thời điểm toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đánh giá 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [1]. Đại hội XIII của Đảng đã thành công tốt đẹp với hệ thống các Văn kiện với nhiều đổi mới, tiến bộ về chất so với trước; nội dung quán triệt sâu sắc nguyên tắc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn, giữa kiên định và đổi mới, giữa kế thừa và phát triển; trên cơ sở phát huy tối đa dân chủ, trân trọng lắng nghe ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, cán bộ, đảng viên và nhân dân; lựa chọn, chắt lọc, tham khảo các đề xuất tâm huyết, trách nhiệm; kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Nội dung các Văn kiện đồng thời đã thể hiện sự tiếp thu có chọn lọc nhiều giá trị chung của nhân loại. Quan điểm, tư tưởng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Pháp quyền Việt Nam XHCN đã được đặt ra từ lâu và tiếp tục được Đại hội lần thứ XIII của Đảng phát triển với nhiều nội dung đột phá, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tiễn đất nước.

1. Quan điểm của Đảng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam qua các kỳ Đại hội

Tư tưởng về nhà nước pháp quyền là một giá trị quý báu của nhân loại được hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư tưởng như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN), Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Sau đó, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được các nhà chính trị và pháp lý tư bản như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 - 1755), J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)… phát triển như một thế giới quan pháp lý mới, đó là thế giới quan chống lại sự chuyên quyền, đặc quyền, tình trạng vô pháp luật, khẳng định mạnh mẽ những tư tưởng nhân đạo, các nguyên tắc tự do bình đẳng. Đây chính là một nội dung cốt lõi của học thuyết nhà nước pháp quyền.

Khái niệm nhà nước pháp quyền theo nguyên nghĩa (thuật ngữ “The Rule of Law) được hiểu là sự tối thượng của pháp luật. Một trong những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật; Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế XHCN, kỷ luật, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nguyên tắc “thượng tôn pháp luật” là yếu tố cốt lõi của Nhà nước pháp quyền và là điều kiện để xây dựng XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.

Tại Việt Nam, quá trình nhận thức của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII là một quá trình dài Đảng ta vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Năm 1922, trong “Việt Nam yêu cầu ca” (được diễn ca trên cơ sở “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gửi đến Hội nghị Quốc tế vì hòa bình họp ở Vécxây (Versailles) năm 1919”) gồm tám điểm, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “....Bảy xin hiến pháp ban hành, trǎm đều phải có thần linh pháp quyền” [2] . Tư tưởng về “thần linh pháp quyền” của Người được hiểu như nội dung có tính chất khởi đầu cho quan điểm về một nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Tư tưởng ấy được Hồ Chí Minh phát triển trên cơ sở chỉ đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ta. Trên thực tế, sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Người đã lãnh đạo nhân dân xây dựng Nhà nước Dân chủ Nhân dân, Người chủ trương tiến hành tổng tuyển cử, bầu ra Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trực tiếp chỉ đạo xây dựng và ban hành Hiến pháp năm 1946 thể hiện tư tưởng xây dựng một chính quyền “mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” [3].

Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đổi mới đã đặt ra những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới tư duy, quan điểm về xây dựng nhà nước trong các điều kiện tiến hành cải cách kinh tế. Mặc dù ở giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, khái niệm “nhà nước pháp quyền” chưa được đề cập trong các văn kiện chính thức của Đảng, nhưng những tư tưởng, nội dung của Nhà nước pháp XHCN Việt Nam hiện nay chịu sự chi phối bởi những kết quả cụ thể của công cuộc đổi mới đất nước từ những năm này.

Nhận thức về Nhà nước pháp quyền đã thể hiện một bước phát triển mới tại Đại hội VII (1991) của Đảng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) có nêu một số nguyên tắc để xây dựng nhà nước, như: Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm; Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật; Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó [4]. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và đánh giá thực tiễn sâu sắc, tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), Đảng ta đã chính thức sử dụng khái niệm “Nhà nước pháp quyền” và khẳng định chủ trương xây dựng Nhà nước ta thành Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Chủ trương đó đánh dấu sự đổi mới mang tính đột phá trong tư duy và nhận thức của xã hội ta về mô hình tổ chức, hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền, khắc phục quan niệm đơn giản khi đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản [5], đặt cơ sở lý luận cho việc triển khai các chủ trương, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ máy nhà nước trong những giai đoạn phát triển tiếp theo.

Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/1/1995 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã nêu năm quan điểm xây dựng Nhà nước, trong đó có quan điểm về Nhà nước pháp quyền, gắn với yêu cầu tăng cường pháp chế XHCN. Tại quan điểm thứ tư: “Tăng cường pháp chế XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Đó là cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội. Đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức XHCN, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí. Cán bộ viên chức nhà nước phải nêu gương đạo đức. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, trước hết trong đảng và cơ quan nhà nước, làm cho mọi người hiểu và làm theo pháp luật [6]”.

Đại hội IX (2001) tiếp tục đánh dấu bước pháp triển mới và toàn diện hơn trong quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng. Văn kiện Đại hội khẳng định “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật” [7]. Như vậy, đến Đại hội IX, nhận thức về Nhà nước pháp quyền của Đảng ta được phát triển lên một tầm cao mới có tính đột phá về tư duy lý luận, phù hợp với thực tiễn đất nước.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Đảng ta tiếp tục khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN. Cần xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp [8]”. Đảng đã tổng kết một trong những bài học lớn qua thực tiễn 20 năm đổi mới là: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là yêu cầu bức thiết của xã hội”. Cùng với đó, Đại hội X đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là: Hoàn thiện hệ thống pháp luật; đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội; cải cách hành chính; cải cách tư pháp; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; đấu tranh phòng chống tham nhũng; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.

Đến Đại hội thứ XI (2011), trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (được bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân là một trong tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa. Có thể thấy mô hình mà Đảng ta đã lựa chọn vừa hội tụ đầy đủ các giá trị chung của nhân loại, vừa khẳng những giá trị đặc thù do điều kiện chính trị - kinh tế - xã hội của đất nước ta quy định. Trên cơ sở thể chế quan điểm của Đảng, Khoản 1, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”.

Trong Báo cáo Chính trị Đại hội XII của Đảng đã dành riêng mục XIV “Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN”. với nội dung: Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đẩy mạnh hoàn thiện và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Xác định rõ cơ chế phân công, phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất là cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất, xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của mỗi quyền [9]

Trong Trong Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành trung ưởng Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã dành riêng mục XIII  “Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam” với nội dung: Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực là thống nhất; xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ,thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định; Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đảm bảo Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất; xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân; Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức, thi hành pháp luật… [10]

Như vậy, về cơ bản, Đại hội XIII của Đảng kế thừa và tiếp tục phát triển quan điểm về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN từ các kỳ đại hội trước với đặc trưng vốn có gắn với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản sắc, đặc thù của riêng mình. Đó là:

Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân.

Thứ hai, quyền lực nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Thứ ba, với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Thứ tư, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

Thứ năm, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Những điểm mới trong Nghị quyết Đại hội XIII về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa

Qua 35 năm đổi mới, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã đề cập những thành công bước đầu “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp tiếp tục được hoàn thiện”. Tuy nhiên bên cạnh đó, Đảng ta cũng thẳng thắn thừa nhận hạn chế trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta thời gian qua là “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có mặt chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và quản lý đất nước trong tình hình mới” [11]. Trong đó có nhấn mạnh: Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn. Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước.

Kế thừa những quan điểm đã được đưa ra tại Hội nghị toàn quốc lần thứ XII, trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ XIII tiếp tục xác định xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị.

Để khắc phục những hạn chế trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đã được Đảng chỉ ra, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã nêu rõ hơn định hướng, những nhiệm vụ, giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời gian tới. Cụ thể:

Thứ nhất, về định hướng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền giai đoạn 2021-2030. Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định sự cần thiết xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong sạch, vững mạnh, tinh gọn. Bên cạnh đó, Văn kiện bổ sung định hướng về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền đảm bảo “hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình”

Văn kiện Đại hội XIII thể hiện quyết tâm mạnh mẽ trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN. Thành tựu của đất nước sau hơn 35 năm đổi mới đã có những bước phát triển vượt bậc cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Tuy nhiên so với yêu cầu thực tế của sự nghiệp đổi mới cũng như nhu cầu của đời sống nhân dân thì phần nào đó vẫn chưa đáp ứng được, do đó Đại hội XIII nhấn mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền phải thực sự “hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”. Thực tế, muốn phát triển bền vững, muốn xây dựng được một xã hội công bằng dân chủ, văn minh, dân giàu, nước mạnh, không thể không xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với tinh thần thượng tôn pháp luật, lấy mục tiêu xây dựng Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân làm thức đo hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Định hướng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN thời gian tới còn đòi hỏi trách nhiệm công khai, minh bạch trong mọi hoạt động của bộ máy Nhà nước. Bằng việc đề cao tính công khai, minh bạch, đề cao trách nhiệm giải trình trong quản lý và hoạt động của bộ máy nhà nước là cơ sở để có một bộ máy trong sạch, vững mạnh, thực sự vì Nhân dân, vì đất nước.

Thứ hai, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.

Bên cạnh việc tiếp tục đề ra những giải pháp nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước đã được nêu ra trong Nghị quyết Đại hội XII, Văn kiện Đại hội XIII cũng bổ sung, làm rõ thêm một số vấn đề. Cụ thể, đối với việc xây dựng hệ thống pháp luật Văn kiện đã nhấn mạnh đến yêu cầu về tính đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định của hệ thống pháp luật. Việc xác định lấy quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo cũng là một trong những điểm mới nổi bật của Văn kiện Đại hội XIII về xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam.

Pháp luật giữ vai trò rất quan trọng trong nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền XHCN phải được xây dựng và hoạt động trên cơ sở một hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ và khả thi, đồng thời phải đảm bảo được vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội. Với những điểm hạn chế còn tồn tại của hệ thống pháp luật Việt Nam là “chưa thống nhất”, “chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn”, đồng thời trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN và hội nhập quốc tế hiện nay, yêu cầu đối với công tác hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật được đặt ra cấp bách và vô cùng cần thiết. Hội nhập trên cơ sở pháp luật, hệ thống pháp luật phải tương thích, đáp ứng được yêu cầu đời sống hiện đại trong nước và quốc tế.

Thứ ba, về giải pháp đổi mới hoạt động của Quốc hội và Chính phủ.

Trong đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Văn kiện Đại hội XIII đã bổ sung nội dung “phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội. Trong đó bên cạnh giải pháp về tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách như đã nêu trong Văn kiện Đại hội XII, Văn kiện Đại hội XIII bổ sung cụ thể thêm giải pháp “giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp”.

Đối với Chính phủ, Văn kiện Đại hội XIII đã có điểm mới quan trọng khi xác định “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn hiệu lực, hiệu quả, trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực…Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương”

Ngày 25-10-2017 Hội nghị Trung ương 6 của Đảng đã thông qua Nghị quyết số 18-NQ/TƯ “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”. Sau gần 4 năm thực hiện, cả nước đã tích cực, chủ động sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Cụ thể, cả nước đã giảm hàng trăm đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và giảm hàng trăm đầu mối từ trực thuộc Trung ương đến cấp sở, ngành... Những năm qua hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành có nhiều đổi mới, chất lượng hoạt động tiến bộ, bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trong quá trình hoàn thiện nhà nước pháp quyền, vấn đề hoàn thiện bộ máy nhà nước nói riêng với hoạt động của các cơ quan nhà nước như Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, chính quyền địa phương… cũng như cả hệ thống chính trị nói chung luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Có thể thấy hệ thống các biện pháp về đổi mới hoạt động của các cơ quan nhà nước trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay được thể hiện trong Văn kiện Đại hội XIII ngày càng đầy đủ, cụ thể hơn.

Thứ tư, về xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Hoạt động tư pháp hiện nay có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, góp phần phát triển các mặt của đời sống xã hội của đất nước. Mỗi vụ việc oan, sai, những hạn chế, vi phạm trong hoạt động tư pháp có thể làm xói mòn lòng tin của người dân vào công lý, ảnh hưởng đến uy tín của Ðảng, Nhà nước, hạn chế thành quả phát triển kinh tế - xã hội, là yếu tố tiềm ẩn gây bất ổn xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân” , hay “nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này, là vấn đề ở đời và làm người” . Lần đầu tiên trong Nghị quyết đề cập tới nội dung xây dựng nền tư pháp đảm bảo tính liêm chính, điều này rất cần thiết và phù hợp với định hướng cải cách tư pháp. Đó là một bước tiến mới trong tư tưởng của Đảng về xây dựng các nhiệm vụ công tác tư pháp trong tương lai.

Thứ năm, về giải pháp “Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp”.

Thời gian qua để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, Đảng ta đã đề ra Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Sau 15 năm triển khai thực hiện hai Nghị quyết nêu trên, công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong thời gian tới, để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, đặc biệt trong vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp, Nghị quyết Đại hội XIII đã nhấn mạnh đến việc nghiên cứu, ban hành “Chiến lược xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam đến năm 2030”. Đây sẽ là một chiến lược tổng thể, có vai trò to lớn trong định hướng xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.

Ngoài ra, Nghị quyết của Đảng tại Hội nghị toàn quốc lần thứ XIII còn đề cập đến nhiều giải pháp khác để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như: Hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp với đặc điểm ở nông thôn, đô thị, hải đảo… Thực hiện tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng với tổ chức thi hành pháp luật, cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giảm hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế. Thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp…

Tóm lại: Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là công việc khó khăn, nhiều thách thức và lâu dài; là nhiệm vụ xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được đề cập trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là một bước tiếp tục hoàn thiện hệ thống lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Đồng thời cũng là một bộ phận trong hệ thống quan điểm thống nhất của Đảng để lãnh đạo đổi mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, vận dụng một cách khoa học các quan điểm của Đảng về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vào thực tiễn có ý nghĩa hết sức quan trọng cả về nhận thức và hành động./.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng.

2. Báo cáo “Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới 1986-2006”, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2006.

3. Hiến pháp năm 1946, lời nói đầu.

4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.1, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011.

5. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.10, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội , 2011.

6. Hồ Chí Minh - Nhà nước và pháp luật - Nhà xuất bản Pháp lý- Hà Nội, 1985.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, 2006.

8. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng: Thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", ngày 27-6-1991.

9. Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/1/1995 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia -  Sự thật, 2016.

11. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia -  Sự thật, 2021. Tập 1.

  Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, phát biểu trong bế mạc Hội nghị đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

  Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.1, NXB. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr. 436 - 437.

 

Chú thích

 1. Hiến pháp năm 1946, lời nói đầu

 2. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng: Thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", ngày 27-6-1991, xem tạiwww.dangcongsan.vn

 3. Xem Báo cáo “Tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới 1986-2006”, Nxb. Chính trị Quốc gia – Sự thật”,2006, Tr 137

 4. Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23/1/1995 của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, xem tại www.dangcongsan.vn

 5. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, xem tại www.dangcongsan.vn

 6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2006, tr.45.

 7. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, 2016, tr.39 - 40

 8. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia - Sự thật, 2021, Tập 1. tr.174-179

9. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia – Sự thật, 2021, Tập 1, tr.89

10. Hồ Chí Minh - Toàn tập - Nhà xuất bản CTQG - Sự Thật - Hà Nội 2011 - Tập 10- tr. 457

11.  Hồ Chí Minh - Nhà nước và pháp luật - Nhà xuất bản Pháp lý- Hà Nội 1985- tr. 187.

Thượng tá, Tiến sĩ Nguyễn Thị Thu Hương - Trưởng Khoa Luật – T04

Link nội dung: https://phaply.net.vn/nhung-diem-moi-trong-van-kien-dai-hoi-dang-lan-thu-xiii-ve-xay-dung-hoan-thien-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-viet-nam-a256888.html