Một số nội dung về tương trợ tư pháp trong công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng và kiến nghị cho Việt Nam

Khắc phục cơ bản những vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn; nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên nhằm tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong TTTP; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật...., là yêu cầu đặt ra từ thực tiễn công tác TTTP hiện nay.

 1. Phạm vi tương trợ tư pháp

Các quốc gia thành viên sẽ dành cho nhau sự hỗ trợ pháp lý tối đa liên quan đến điều tra, truy tố và xét xử những loại tội phạm được quy định trong UNCAC. Tương trợ tư pháp được thực hiện ở mức độ cao nhất có thể theo các luật, điều ước, hiệp định và thỏa thuận tương ứng của quốc gia thành viên được yêu cầu liên quan tới việc điều tra, truy tố và xét xử đối với các loại tội phạm mà một pháp nhân có thể phải chịu trách nhiệm ở quốc gia thành viên yêu cầu theo Điều 26 của Công ước này.

Phạm vi TTTP trong UNCAC gồm: Lấy chứng cứ hoặc lời khai của người có liên quan; tống đạt tài liệu tư pháp; tìm kiếm, tạm giữ và phong tỏa; Khám nghiệm vật thể và hiện trường; Cung cấp thông tin, chứng cứ và giám định; cung cấp bản gốc hoặc bản sao có chứng thực của tài liệu và hồ sơ, bao gồm cả hồ sơ của chính phủ, ngân hàng, tài chính, công ty hay doanh nghiệp; xác định hoặc truy tìm tiền phạm pháp, tài sản, công cụ hoặc những đồ vật khác để làm chứng cứ; tạo điều kiện thuận lợi cho sự có mặt tự nguyện của các cá nhân ở quốc gia yêu cầu; Các hình thức trợ giúp khác không trái với pháp luật của quốc gia được yêu cầu; Xác minh, phong tỏa và truy tìm tài sản do phạm tội mà có theo các quy định tại Chương V của Công ước này; việc thu hồi tài sản theo các quy định tại Chương V của Công ước này.

2. Một số hoạt động chuyển giao

Chuyển giao thông tin liên quan đến tội phạm: trên cơ sở không trái với pháp luật quốc gia, dù không có yêu cầu trước đó, các cơ quan chức năng của một quốc gia thành viên có thể chuyển thông tin liên quan đến tội phạm cho cơ quan chức năng của quốc gia khác nếu họ tin rằng thông tin đó có thể hỗ trợ cho cơ quan này tiến hành hay kết thúc thành công các cuộc điều tra và tố tụng hình sự hoặc rằng việc chuyển thông tin đó sẽ dẫn tới việc quốc gia khác kia đưa yêu cầu theo Công ước này.

Chuyển giao người đang chịu hình phạt tù: Người đang chịu hình phạt tù hoặc đang thi hành một bản án trên lãnh thổ của một quốc gia thành viên nhưng lại bị quốc gia thành viên khác yêu cầu có mặt vì mục đích nhận diện, điều trần, hoặc các mục đích khác để hỗ trợ việc thu thập chứng cứ cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử các tội phạm được Công ước này điều chỉnh, có thể bị chuyển giao nếu các điều kiện sau được đáp ứng: (a) Người đó tự nguyện đồng ý sau khi đã biết có yêu cầu; (b) Các cơ quan chức năng của cả hai quốc gia thành viên đồng ý, phụ thuộc vào các điều kiện mà các quốc gia thành viên này cho là phù hợp.

images729753-bnctw-1-1683555351.jpg

 Đồng chí Nguyễn Thanh Hải, Phó Trưởng Ban Nội chính Trung ương tiếp, làm việc với Đoàn công tác Bộ Tư pháp Cộng hòa Liên bang Đức (ảnh Đặng Phước)

Người làm chứng, chuyên gia hay người nào khác, theo yêu cầu của quốc gia yêu cầu, đồng ý đưa ra chứng cứ trong quá trình tố tụng hoặc đồng ý trợ giúp một cuộc điều tra, truy tố hay xét xử trên lãnh thổ của quốc gia yêu cầu sẽ không bị truy tố, giam giữ, trừng phạt hay phải chịu bất kỳ sự hạn chế nào về tự do cá nhân trên lãnh thổ đó vì việc hành động hay không hành động hoặc một bản án có trước khi người này rời khỏi lãnh thổ của quốc gia được yêu cầu. Sự bảo đảm an toàn này sẽ chấm dứt khi người làm chứng, chuyên gia hay người khác dù đã có cơ hội trở về nước, trong khoảng thời gian là 15 ngày liên tục hay bất kỳ khoảng thời gian nào khác theo thỏa thuận của các quốc gia thành viên kể từ khi người này được thông báo chính thức rằng sự có mặt của người này không còn cần thiết nữa đối với các cơ quan tư pháp, nhưng vẫn tự nguyện ở lại lãnh thổ của quốc gia thành viên yêu cầu hoặc đã rời đi nhưng sau đó lại quay lại theo ý nguyện của chính bản thân người này.

Bất cứ khi nào có thể và phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật quốc gia, khi một cá nhân đang ở trong lãnh thổ của một quốc gia thành viên và cần phải trình bày ý kiến trước các cơ quan tư pháp của một quốc gia thành viên khác với tư cách là người làm chứng, hay chuyên gia, thì theo đề nghị của bên kia, quốc gia thành viên ban đầu có thể cho phép buổi trình bày được thực hiện qua hình thức trao đổi qua video nếu người có liên quan không thể hoặc muốn có mặt trên lãnh thổ của quốc gia yêu cầu. Các quốc gia thành viên có thể thống nhất rằng buổi trình bày sẽ được tổ chức bởi cơ quan tư pháp của quốc gia thành viên yêu cầu với sự tham dự của một cơ quan tư pháp của quốc gia thành viên được yêu cầu.

Quốc gia yêu cầu không được chuyển giao hoặc sử dụng thông tin hay chứng cứ được cung cấp bởi quốc gia được yêu cầu cho việc điều tra, truy tố, xét xử khác với những việc đã nêu cụ thể trong đơn yêu cầu mà chưa có sự đồng ý trước của quốc gia được yêu cầu. Không có quy định nào trong khoản này ngăn cản việc quốc gia yêu cầu tiết lộ các thông tin hoặc chứng cứ minh oan cho một người bị kết tội trong quá trình tư pháp. trong trường hợp vừa nêu, quốc gia yêu cầu phải thông báo quốc gia được yêu cầu biết trước khi tiết lộ và, nếu được yêu cầu thì sẽ thảo luận  với quốc gia được yêu cầu về việc này. Nếu, trong trường hợp ngoại lệ, việc báo trước không thể thực hiện được, quốc gia yêu cầu phải thông báo ngay cho quốc gia được yêu cầu sau khi đã tiết lộ thông tin.

Quốc gia yêu cầu có thể đề nghị quốc gia được yêu cầu giữ bí mật tình tiết và nội dung của yêu cầu, trừ khi phải tiết lộ tới phạm vi cần thiết để thực hiện yêu cầu. Nếu quốc gia được yêu cầu không thể tuân theo đề nghị giữ bí mật này, thì phải nhanh chóng thông báo cho quốc gia yêu cầu biết. 

3. Hình thức yêu cầu tương trợ tư pháp

Yêu cầu TTTP phải được lập thành văn bản hoặc, nếu có thể, bằng những cách có khả năng tạo ra văn bản, bằng ngôn ngữ mà quốc gia được yêu cầu chấp nhận, theo các điều kiện cho phép quốc gia thành viên đó xác minh được tính xác thực. trong các trường hợp khẩn cấp và nếu các quốc gia thành viên đồng ý, các yêu cầu TTTP bằng miệng có thể được chấp nhận nhưng sau đó phải có xác nhận lại bằng văn bản.

Văn bản yêu cầu TTTP phải bao gồm: (1) Đặc trưng nhận biết của cơ quan đưa yêu cầu; (2) Đối tượng và bản chất của việc điều tra, truy tố hoặc xét xử liên quan đến yêu cầu và tên gọi, chức năng của cơ quan điều tra, truy tố hoặc xét xử; (3) Tóm tắt về những sự kiện liên quan, trừ trường hợp yêu cầu TTTP nhằm mục đích tống đạt tài liệu tư pháp; (4) Miêu tả việc trợ giúp và nêu chi tiết về quy trình cụ thể mà Quốc gia yêu cầu muốn được thực hiện; (5) Nếu có thể, nêu đặc điểm nhận dạng, nơi ở và quốc tịch của người có liên quan; và (6) Mục đích của việc tìm kiếm chứng cứ, thông tin hay hành động.

4. Cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận yêu cầu tương trợ tư pháp

Mỗi quốc gia thành viên sẽ chỉ định một cơ quan trung ương có trách nhiệm và quyền hạn tiếp nhận các yêu cầu về tttP; thực hiện hoặc chuyển chúng đến các cơ quan chức năng khác để thực hiện. Các cơ quan trung ương phải đảm bảo thực hiện hoặc chuyển giao khẩn trương và đầy đủ các yêu cầu nhận được. trường hợp cơ quan trung ương chuyển yêu cầu đến cơ quan chức năng để thực hiện, cơ quan trung ương phải khuyến khích thực hiện khẩn trương và đầy đủ yêu cầu đó. Các yêu cầu TTTP và mọi liên lạc có liên quan phải được chuyển đến các cơ quan trung ương mà các quốc gia thành viên chỉ định.

5. Từ chối, hoãn thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp

Việc TTTP có thể bị từ chối trong những trường hợp sau: (1) Nếu đơn yêu cầu được lập không đúng theo các quy định của điều này; (2) Nếu quốc gia được yêu cầu nhận thấy việc thực hiện yêu cầu có khả năng xâm hại đến chủ quyền, an ninh, trật tự công cộng hoặc các lợi ích thiết yếu khác; (3) Nếu các cơ quan của quốc gia được yêu cầu bị pháp luật quốc gia ngăn cấm thực hiện việc được yêu cầu đối với bất cứ tội phạm tương tự nào, bởi tội phạm đó đã là đối tượng của việc điều tra, truy tố và xét xử trong phạm vi quyền hạn của chính các cơ quan này; (4) Nếu việc chấp nhận yêu cầu TTTP của đơn yêu cầu này là trái với hệ thống pháp luật của quốc gia được yêu cầu.

Ngoài ra, các quốc gia thành viên có thể từ chối trợ giúp với lý do thiếu điều kiện cùng hình sự hóa. Tuy nhiên, quốc gia thành viên, khi phù hợp với các khái niệm cơ bản của pháp luật của mình sẽ phải trợ giúp nếu việc trợ giúp này không liên quan đến những hành vi mang tính cưỡng chế. Việc trợ giúp như vậy có thể bị từ chối khi yêu cầu có liên quan đến những vấn đề nhỏ nhặt hoặc các vấn đề mà việc hợp tác hoặc trợ giúp có thể được thực hiện theo các quy định khác của Công ước này. Các quốc gia thành viên sẽ không từ chối TTTP vì lý do đảm bảo bí mật ngân hàng hoặc vì lý do tội phạm cũng được coi là có liên quan đến các vấn đề tài chính. Ngoài ra, tương trợ tư pháp có thể bị hoãn bởi quốc gia thành viên được yêu cầu, do việc đó cản trở vụ việc đang được điều tra, truy tố, hoặc xét xử.

6. Một số kiến nghị cho Việt Nam

Cần sửa đổi một cách toàn diện Luật TTTP hiện hành theo hướng tách thành các luật riêng điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau của hoạt động TTTP, trong đó quy định đầy đủ về phạm vi tương trợ, trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động tương trợ. Việc tách thành các luật riêng điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau của hoạt động TTTP sẽ bảo đảm quy định cụ thể và đầy đủ hơn hoạt động TTTP trong từng lĩnh vực; khắc phục cơ bản những vướng mắc, bất cập phát sinh trong thực tiễn; nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên nhằm tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho việc hợp tác quốc tế trong TTTP; bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật.

Mở rộng phạm vi TTTP hình sự: Về tổng thể, trong pháp luật TTTP Việt Nam, phạm vi TTTP hình sự căn bản tương thích với các quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc là thành viên. tuy nhiên, xem xét các trường hợp cụ thể cho thấy, phạm vi TTTP hình sự của Việt Nam là khá hẹp so với các cam kết trong các điều ước quốc tế đa phương và song phương. Mặc dù tại khoản 6 Điều 17 quy định “Các yêu cầu TTTP khác về hình sự” là quy định “quét”. Quy định này có ưu điểm và hạn chế. Ưu điểm của quy định này sẽ giải quyết thỏa đáng các cam kết của Việt Nam đối với các quốc gia hữu quan. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để giải trình các nghĩa vụ hợp tác của mình. tuy nhiên, đây cũng là quy định bộc lộ nhiều hạn chế, đặc biệt trong quá trình thực thi các nội dung hợp tác quốc tế về TTTP hình sự.

Do đó, chúng tôi cho rằng, cần thiết phải sửa đổi quy định hiện hành về phạm vi TTTP hình sự theo hướng bổ sung các nội dung khác như: Xác minh, giải quyết tin báo, tố giác tội phạm; liên kết điều tra, phối hợp điều tra; quy định cho phép sử dụng các phương tiện kỹ thuật áp dụng công nghệ cao (thư điện tử, fax...) trong việc gửi, tiếp nhận hồ sơ ủy thác tư pháp và thực hiện một số hoạt động TTTP... Đồng thời, cần bổ sung phạm vi TTTP hình sự bao gồm các hoạt động tương trợ trong việc áp dụng biện pháp truy tìm, thu giữ, phong tỏa, kê biên, tịch thu, trả lại tài sản do phạm tội mà có và công cụ, phương tiện phạm tội; cho phép người tiến hành tố tụng của Bên yêu cầu được tham gia một số hoạt động trong quá trình thực hiện TTTP tại Bên được yêu cầu; lấy lời khai qua cầu truyền hình; tổ chức cho người của Bên được yêu cầu đến Bên yêu cầu để hỗ trợ điều tra hoặc cung cấp chứng cứ; liên kết điều tra, phối hợp điều tra...

Đây là những hoạt động TTTP đã được quy định trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương trong lĩnh vực tư pháp hình sự mà Việt Nam đã ký kết và tham gia, hiện đã phát sinh trên thực tiễn. Tăng cường công tác phối hợp liên ngành, đặc biệt tăng tính chủ động và kịp thời trong phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và tòa án; giữa các cơ quan này với cơ quan trung ương về TTTP hình sự trong việc lập, gửi, bổ sung thông tin yêu cầu tương trợ cho nước ngoài; giữa cơ quan trung ương về TTTP hình sự của Việt Nam với các cơ quan trung ương về TTTP về hình sự của nước ngoài nhằm bảo đảm hiệu quả quá trình liên hệ, đôn đốc thực hiện, có kết quả tương trợ.

Tăng cường TTTP hình sự để xử lý hành vi tham nhũng có yếu tố nước ngoài và thu hồi tài sản tham nhũng. triển khai đầy đủ, có hiệu quả Kế hoạch thực hiện Công ước và Quy chế phối hợp thực hiện Công ước của Liên hợp quốc về Chống tham nhũng. Tổ chức nghiên cứu, học tập, trao đổi để tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các nước và các tổ chức quốc tế trong đấu tranh PCTN như nghiên cứu các quy định của pháp luật về cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động và các biện pháp được áp dụng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng của các nước. Trên cơ sở đó tìm ra những bài học kinh nghiệm để vận dụng sửa đổi, bổ sung khung pháp lý về pháp luật PCTN của Việt Nam nhằm bảo đảm sự phù hợp với pháp luật quốc tế, đặc biệt là UNCAC và đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc.

Tăng cường hợp tác quốc tế về PCTN, tham gia, ký kết các hiệp định TTTP song phương trong lĩnh vực hình sự có nội dung thu hồi tài sản tham nhũng và dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam với các nước nhằm tạo cơ sở pháp lý, cơ chế phối hợp trong đấu tranh PCTN có yếu tố nước ngoài. Đối với những nước mà Nhà nước ta đã ký Hiệp định TTTP về hình sự, cần nghiên cứu đề xuất để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới ở Việt Nam.

Tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia thường xuyên phát sinh nhu cầu TTTP nhưng chưa ký kết Hiệp định để sớm tạo sự đồng thuận chung giữa hai nước; đẩy mạnh trao đổi, cung cấp thông tin, chứng cứ, tài liệu để phát hiện, xử lý tội phạm về tham nhũng; đồng thời, tăng cường các hoạt động nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm và TTTP trong PCTN trong quá trình triển khai thực hiện nhằm bảo đảm các hoạt động hợp tác quốc tế phù hợp với đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta.

Link nội dung: https://phaply.net.vn/mot-so-noi-dung-ve-tuong-tro-tu-phap-trong-cong-uoc-lien-hop-quoc-ve-chong-tham-nhung-va-kien-nghi-cho-viet-nam-a256815.html