Có không ít rủi ro mà doanh nghiệp cần lưu ý khi thực hiện giao dịch mua bán và sáp nhập (ảnh minh hoạ)
Thời gian qua, tại thị trường Việt Nam đã ghi nhận rất nhiều các thương vụ mua bán và sáp nhập (M&A) đa dạng trong các lĩnh vực đời sống như ngân hàng, tiêu dùng, xây dựng… như việc Central Group mua lại Big C Việt Nam, SK Group đầu tư 410 triệu USD vào VinCommerce, Bamboo Capital mua lại 71% cổ phần AAA ….
Bên cạnh những giao dịch M&A đã thành công cũng có những giao dịch M&A không diễn ra như mong muốn bởi cả yếu tố chủ quan và khách quan.
Giao dịch M&A và cơ hội “mở’ cho các doanh nghiệp Việt
Trong chu kỳ phát triển, các công ty đều muốn phát triển lớn mạnh bằng cách mở rộng lĩnh vực kinh doanh hoặc mở rộng quy mô, chiếm lĩnh thị trường đối với ngành nghề đang phát triển của mình. Khi đó, họ sẽ có những cân nhắc về các lựa chọn phương án “xây dựng” hay “mua” trong chiến lược phát triển tuỳ thuộc vào năng lực chuyên môn cũng như năng lực về tài chính. Cả hai phương pháp trên đều có những ưu nhược điểm riêng.
Phương án “Xây dựng” thường tốn ít chi phí hơn hoặc ít nhất nó cũng cho phép chi phí được rải đều trong suốt quá trình thực hiện. “Xây dựng” cũng giúp công ty hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát, linh động hơn trong việc tạo ra những thay đổi trong suốt quá trình xây dựng tương ứng với những thay đổi trong nhu cầu của thị trường.
Tuy nhiên, phương án này cũng có những bất lợi riêng. Chúng ta có thể nhìn thấy được những vấn đề nảy sinh trong quá trình “xây dựng”. Đó là sự đòi hỏi những kiến thức chuyên môn mà công ty không có nếu như đầu tư vào một lĩnh vực mới; xây dựng hoạt động tại một khu vực địa lý mới đòi hỏi công ty phải có những hiểu biết đôi nét về văn hóa, con người, các quy định pháp luật…. Đặc biệt là yếu tố thời gian. Việc “xây dựng” một năng lực, một hoạt động, hay một tài sản bất kì nào có thể là một quá trình rất lâu dài. Đặc biệt liên quan đến một công ty có những lợi thế nhất định; hoặc là có giấy phép sở hữu một công nghệ hay một nhãn hiệu mạnh, các công ty khác sẽ không thể có được lợi thế, công nghệ hay nhãn hiệu đó trừ khi họ mua lại công ty trên.
Chính vì những lý do trên, phương án “Mua lại” được đưa ra cân nhắc và so sánh. Bởi vì, việc “Mua lại” có lợi thế về tốc độ do nó thường mất ít thời gian để có được năng lực mong muốn hơn so với việc gây dựng nên những giá trị tương đương từ mốc số “không” ban đầu.
Việc “mua lại” là một phương án khá tối ưu trong những thị trường biến động nhanh và những khu vực tăng trưởng nhanh, bởi vì, sự khác biệt giữa một vài năm, hay thậm chí là vài tháng, có thể tương đương với sự khác biệt giữa việc chớp lấy cơ hội nhanh chóng xâm nhập, thống lĩnh thị trường so với việc phải đấu tranh, vật lộn để thích nghi trong môi trường mới; Ngoài ra, doanh nghiệp sẽ có được những hoạt động ở một khu vực mới và có luôn cả một đội ngũ nhân viên sở tại vốn đã hiểu rõ về văn hóa địa phương. Vì vậy, việc bỏ ra một khoản chi phí lớn nhưng đạt được mục tiêu mong muốn cũng rất đáng giá.
Tuy nhiên, “mua lại” cũng ẩn chứa nhiều khó khăn mà những khó khăn này lại thường bị xem nhẹ như: Tranh chấp giữa cổ đông mới và cũ; việc tổ chức, sắp xếp lại nhận sự….
Ở Việt Nam, thực tiễn cho thấy hoạt động M&A đã trở thành một kênh huy động vốn hiệu quả, có vai trò quan trọng trong việc đa dạng hóa các kênh thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc lại nền kinh tế, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường.
Giai đoạn những năm từ 2007-2017 là thời kỳ bùng nổ các giao dịch M&A tại Việt Nam nhờ sự tích cực cải thiện chính sách đầu tư thông qua việc tham gia các hiệp định song phương và đa phương, điển hình là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) bên cạnh việc sửa đổi, bổ sung các quy định trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư để nâng cao hiệu quả nguồn lực đầu tư và chất lượng quản trị doanh nghiệp. Điều này đã giúp Việt Nam trở thành một môi trường tiềm năng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
M&A được coi là công cụ hữu hiệu giúp các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận và đầu tư vào thị trường Việt Nam (ảnh minh hoạ)
Thời gian gần đây, đại dịch covid-19 cùng những bất ổn địa chính trị đã và đang diễn ra trên toàn cầu đã có những tác động mạnh mẽ tới thị trường đầu tư, sản xuất nói chung và lĩnh vực M&A nói riêng. Nhiều doanh nghiệp buộc phải tái cấu trúc, bán bớt tài sản, kêu gọi đầu tư do sức ép về tài chính. Khi đó, sự chuyển dịch dòng vốn đầu tư và cơ sở sản xuất để tìm đến những thị trường tiềm năng, có nguồn nhân lực giá rẻ như Việt Nam là một sự ưu tiên của các công ty đa quốc gia.
Để có thể ngay lập tức tiếp cận được thị trường, M&A được coi là công cụ hữu hiệu giúp các nhà đầu tư nước ngoài tiếp cận và đầu tư vào thị trường Việt Nam với chi phí rẻ hơn và tận dụng được những lợi thế sẵn có để tránh gặp phải các khó khăn khi phải thích nghi với văn hóa và môi trường kinh doanh mới.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến ngày 20/02/2023, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp (GVMCP) của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đạt gần 3,1 tỷ USD. Điều đó cho thấy, các nhà đầu tư quốc tế rất quan tâm đến thị trường Việt Nam, nơi còn có rất nhiều “tài nguyên” để có thể khai thác.
Vì vậy, với tư cách là bên Bán, các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm bắt thật tốt tình hình, xây dựng doanh nghiệp theo các chuẩn mực cao về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) để phù hợp với xu thế chung. Qua đó có thể thu hút các nguồn vốn đầu tư, tìm kiếm sức mạnh cộng hưởng để tái cấu trúc, tập trung hơn vào các hoạt động cốt lõi đang bộc lộ rõ ở nhiều doanh nghiệp trong nước mà chỉ thông qua hoạt động M&A mới có thể đáp ứng. Đặc biệt trong lĩnh vực Bất động sản, hiện nay các nhà phát triển bất động sản trong nước đang khó khăn về nguồn vốn, vướng mắc về thủ tục đầu tư, pháp lý kéo dài thì việc tiếp cận được các nguồn vốn mới linh hoạt sẽ giúp tạo cơ hội cho sự hồi phục và tăng trưởng.
Những bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động M&A
Có thể nói, giao dịch M&A là một sự kiện có ảnh hưởng sâu sắc đến các công ty và thường là sự đánh dấu chấm hết cho một công ty với tư cách là một đơn vị kinh doanh độc lập, hoặc ít nhất đánh dấu một sự thay đổi có tầm ảnh hưởng to lớn đến thành phần sở hữu hoặc số phận của một công ty.
Tuy nhiên, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động M&A ở Việt Nam hiện nay chưa được thiết kế trong một văn bản thống nhất mà nằm rải rác trong nhiều văn bản luật khác nhau như: Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Luật Cạnh tranh năm 2018; Luật Chứng khoán năm 2019; Luật Doanh nghiệp năm 2020 và Luật Đầu tư năm 2020. Bởi lẽ đó, việc thực hiện các giao dịch M&A gặp nhiều khó khăn.
Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định các hình thức tập trung kinh tế bao gồm: sáp nhập doanh nghiệp; hợp nhất doanh nghiệp; mua lại doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh nghiệp; các hình thức tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Luật Cạnh tranh quy định việc sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp và mua lại doanh nghiệp là hành vi tập trung kinh tế. Hành vi đó cần phải báo cáo hoặc có thể bị cấm. Cụ thể, các thương vụ M&A dẫn đến việc nắm giữ thị phần từ 30% đến 50% trong một “thị trường liên quan” phải được thông báo cho Cục Quản lý cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công thương). Các giao dịch dẫn đến thị phần kết hợp trên 50% bị cấm (trừ một số trường hợp nhất định).
Tuy nhiên, “thị trường liên quan” là gì chính là một câu hỏi còn bỏ ngỏ. Mặc dù thị trường liên quan được quy định trong Luật Cạnh tranh, được xác định trên cơ sở thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan, nhưng trên thực tế, rất khó xác định được hai yếu tố cấu thành của thị trường liên quan. Và quyết định của các cơ quan chức năng còn rất chủ quan khiến các nhà đầu tư phải đối mặt với nhiều rủi ro tiềm ẩn trong các thương vụ M&A.
Quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động M&A ở Việt Nam chưa được thiết kế trong một văn bản thống nhất mà nằm rải rác trong nhiều văn bản luật khác nhau
Luật Chứng khoán năm 2019 chỉ quy định về các hình thức chia, tách, sáp nhập, hợp nhất công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ mà không đề cập đến việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất trong các lĩnh vực khác. Việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất trong các lĩnh vực nêu trên phải được sự chấp thuận của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Bên cạnh đó, một trong những thay đổi lớn trong quy định về chào mua công khai là bên mua sẽ phải thực hiện chào mua công khai cổ phiếu của công ty mục tiêu nếu sau khi giao dịch mua dự kiến kết thúc, bên mua và người có liên quan của bên mua sở hữu “gián tiếp” từ 25% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty mục tiêu tại Điều 35.
Vì luật còn chưa đưa ra tiêu chí để xác định thế nào là sở hữu gián tiếp, các bên sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc xác định mình có thuộc diện chào mua công khai hay không, như nếu bên mua không mua toàn bộ mà chỉ mua một phần cổ phần trong công ty A nói trên, thì không biết khi đó bên mua có bị coi là sở hữu gián tiếp công ty mục tiêu hay không. Đây là vấn đề cần được cơ quan quản lý cạnh tranh hướng dẫn cụ thể.
Luật Doanh nghiệp năm 2020 đưa ra khái niệm, quy định về trình tự thủ tục sáp nhập, hợp nhất, doanh nghiệp và xác định M&A doanh nghiệp như hình thức tổ chức lại doanh nghiệp xuất phát từ nhu cầu tự thân của doanh nghiệp. Mặc dù Luật này không đưa ra định nghĩa cụ thể về M&A doanh nghiệp, song đã có một số quy định khá cụ thể về M&A đối với từng loại hình doanh nghiệp
Về cơ bản, Luật Doanh nghiệp năm 2020 chứa đựng khá nhiều quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh liên quan đến hoạt động sáp nhập, mua lại doanh nghiệp. Các quy định này đã và đang phát huy tác dụng trong việc tạo hành lang pháp lý an toàn cho các giao dịch M&A phát triển.
Tuy nhiên, yếu tố thông tin doanh nghiệp cần có sự xem xét và quy định chặt chẽ hơn bởi vì, để tiến hành các hoạt động M&A, việc xác định được công ty mục tiêu tiềm năng đáp ứng các yêu cầu và mong muốn của nhà đầu tư là rất quan trọng. Tại thị trường Việt Nam, thông tin về doanh nghiệp mà nhà đầu tư hướng tới còn rất hạn chế và không có công cụ tìm kiếm hữu ích với nguồn dữ liệu đáng tin cậy để nhà đầu tư có thể thu thập thông tin. Trong khi đó, các công ty muốn được sáp nhập hoặc bán thường che giấu thông tin kinh doanh bất lợi, các khoản nợ hoặc các tranh chấp, kiện tụng, khiến nhà đầu tư gặp nhiều rủi ro khi không nắm được thông tin từ phía công ty mà họ dự định đầu tư.
Luật Đầu tư năm 2020 thừa nhận hai hình thức M&A là sáp nhập và mua lại doanh nghiệp. Hoạt động M&A doanh nghiệp được coi là một trong những hình thức đầu tư trực tiếp. Theo quy định của Luật này thì việc mua lại doanh nghiệp có thể được thực hiện dưới hình thức mua lại một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp hoặc chi nhánh. Theo đó, nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế (Điều 24); nhà đầu tư nước ngoài có thể đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp vào tổ chức kinh tế (Điều 25 và Điều 26).
Ngoài ra, thủ tục phê duyệt các giao dịch M&A tại Việt Nam cũng khá rườm rà, khi hầu hết các giao dịch cần phải được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt. Quá trình phê duyệt trong thực tế có thể lên đến nhiều tháng, đặc biệt, nếu M&A liên quan đến lĩnh vực kinh doanh có điều kiện thì thời gian sẽ dài hơn bởi phải chờ nhiều cơ quan khác nhau phê quyệt.
Từ những hạn chế trên, để tiến tới phát triển hoạt động M&A, Việt Nam cần xây dựng một hệ thống hành lang pháp lý thống nhất cho hoạt động này, từ đó tạo sự yên tâm cho nhà đầu tư trong quá trình thực hiện các thương vụ này với các quy định rõ ràng về quản lý, trách nhiệm và quyền lợi của các chủ thể tham gia các thương vụ M&A.
Rủi ro thường gặp hậu M&A mà doanh nghiệp cần lưu ý
Bên cạnh những vấn đề còn tồn tại của các văn bản pháp luật, các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào các giao dịch M&A cũng cần có sự chuẩn bị kỹ lượng theo từng bước của một thương vụ M&A để có thể tránh được các phát sinh có thể dẫn đến tranh chấp, khiếu kiện hậu M&A.
Theo ghi nhận thực tế, có một vài rủi ro không mong đợi có thể sảy ra sau quá trình M&A, có thể kể đến là:
Tranh chấp về vấn đề giả mạo giấy tờ pháp lý khi bên bán cố tình đưa ra những tài liệu này để thuyết phục bên mua thực hiện giao dịch M&A.
Trong quá trình xem xét và đánh giá hồ sơ pháp lý, mặc dù đội ngũ tham gia thẩm định của bên Mua có thể đã hết sức nỗ lực để kiểm soát chất lượng của tài liệu, giấy tờ nhưng vẫn có thể xuất hiện những vấn đề về giấy tờ pháp lý do sự cố tình làm giả mà bằng mắt thường hoặc giác quan không thể đánh giá được đó có phải là giấy tờ gốc hay không.
Chính vì vậy, việc tìm hiểu, đánh giá các loại giấy tờ pháp lý cần được thực hiện theo đúng quy trình, đồng bộ và phải có những người thật sự am hiểu về lĩnh vực cụ thể. Đặc biết cần các bên kiểm tra kỹ lưỡng các tài liệu này với cơ quan ban hành.
Theo thực tế, có thể thấy rằng các doanh nghiệp khi tiến hành giao dịch M&A, đội ngũ thực hiện thẩm định hồ sơ pháp lý có thể là sự kết hợp nhân sự của hai nguồn nhân lực: trong công ty và ngoài công ty. Bởi vì, chuyên viên pháp bên trong công ty là người am hiểu rõ hơn về thương vụ mua bán và cách thức mà Lãnh đạo công ty nhìn nhận vụ mua bán ra sao, nhưng những người này lại ít kinh nghiệm hơn so với các luật sư chuyên về lĩnh vực M&A. Việc sử dụng kết hợp các nguồn lực sẽ đảm bảo tính hiệu quả cũng như mức độ an toàn được nâng cao, tránh được những sai sót trong quá trình thu thập và đánh giá.
Tranh chấp về lao động khi chủ sở hữu mới tái cơ cấu lực lượng lao động, hoặc chấm dứt hợp đồng lao động với những người lao động chủ chốt trong bộ máy lao động cũ.
Trong hầu hết các trường hợp, khi thông báo thương vụ tới nhân viên, đặc biệt nhân viên của Bên Bán sẽ là những người thất vọng nhất. Vì vậy, để có thể tránh những rắc rối có thể xảy ra khi liên quan đến hợp đồng lao động của nhân viên Bên Bán, Bên Mua cần tìm hiểu và lên kế hoạch kỹ càng về vấn đề xử lý nhân sự. Bên mua hoặc ban lãnh đạo mới của công ty nên xử lý theo hướng đúng quy định pháp luật nhưng có xem xét lợi ích của người lao động đã gắn bó với công ty mục tiêu. Công ty nên có lộ trình đào tạo lại, chuyển đổi công việc trước khi tính đến phương án cắt giảm người lao động.
Trước đó, Bên Bán có thể thông báo về thương vụ với nhân viên rằng bên cạnh việc sa thải một số nhân công, cơ bản hầu hết nhân viên sẽ tiếp tục làm việc và lần lượt dành được những gói quyền lợi tốt hơn, có việc làm ổn định hơn trong doanh nghiệp lớn hơn của Bên Mua.
Tranh chấp về kinh doanh, thương mại, hợp đồng, sở hữu trí tuệ… với các đối tác có quan hệ hợp tác.
Thông thường, bên cạnh việc thẩm định pháp lý doanh nghiệp, bên mua còn tiến hành các hoạt động thẩm định các hoạt động của Doanh nghiệp đã và đang diễn ra trong thực tế. Để trách các thiếu sót, việc thẩm định cần thực hiện nghiêm túc và chuyên nghiệp. Sau khi rà soát và lên danh sách, điều bên mua cần thực hiện đó là việc thông báo cụ thể tới các đối tác của công ty năm bắt tình hình, lên phương án xử lý tối ưu đảm bảo quyền lợi của các bên.
Kết mở
Có thể thấy rằng, yếu tố chính cho sự thành công hay thất bại của M&A là sự tương thích của kế hoạch hòa nhập giữa các bên sau khi quá trình mua bán, sáp nhập diễn ra. Kế hoạch này cần phải giải quyết tổng thể các vấn đề về nhân sự, đãi ngộ, quan hệ với nhà đầu tư, tích hợp hoạt động, bán và thanh lý tài sản, phản ứng của các đối thủ cạnh tranh, quan hệ và giao tiếp giữa các bộ phận và công ty thành viên, kế hoạch dự phòng..., đặc biệt, yếu tố quản lý và điều hành sao cho hiệu quả phải được coi là một công tác quan trọng thời hậu sáp nhập.
Bên cạnh đó, sự hoàn thiện về thể chế và các quy định của hệ thống pháp luật cũng là một yếu tố thiết thực góp phần tạo động lực cho các giao dịch M&A.
Phúc Anh