Vận dụng nguyên tắc suy đoán vô tội nhìn từ việc trả tự do 4 tiếp viên hàng không

(Pháp lý) – Nguyên tắc suy đoán vô tội có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự, được ví như nguyên tắc “vàng” trong TTHS. Nguyên tắc này đảm bảo cho việc chứng minh tội phạm được chính xác và khách quan, từ đó bảo vệ công lý, công bằng và tránh được oan sai.

Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường cho biết, với nguyên tắc suy đoán vô tội, tôn trọng sự thật khách quan thì không có gì bất ngờ khi cơ quan cảnh sát điều tra trả tự do cho 04 nữ tiếp viên hàng không Vietnam Airlines. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra vụ án này mà có các chứng cứ tài liệu khác chứng minh các nữ tiếp viên này đã thực hiện hành vi phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy hoặc tội khác thì cơ quan điều tra vẫn có thể khởi tố bị can, vẫn có thể bắt tạm giam để tiến hành điều tra, xử lý theo quy định pháp luật.

Ảnh minh hoạ

Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định như thế nào?

Điều 13 BLTTHS năm 2015 quy định nguyên tắc suy đoán vô tội “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”.

Cụ thể, thứ nhất, người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi tội của họ được chứng minh theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định và có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.

Thứ hai, khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục luật định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Mọi nghi ngờ trong quá trình tố tụng đều phải được giải thích theo hướng có lợi cho người bị buộc tội.

Như vậy, khi chưa được chứng minh theo trình tự, thủ tục do luật quy định, chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội phải được coi là người không có tội. Do không được coi là người có tội nên các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được đối xử với người bị buộc tội như người có tội, kể cả trường hợp họ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất như tạm giam.

Vì vậy, BLTTHS quy định chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ chấp hành án phạt tù. Pháp luật và thực tiễn tố tụng đều thừa nhận không phải mọi người bị buộc tội đều là chủ thể của tội phạm. Tuy nhiên, khi buộc tội một người phải có căn cứ theo quy định của pháp luật.

Mặt khác, BLTTHS quy định nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Khi chứng minh tội phạm, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định sự thật vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ làm rõ chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của người bị buộc tội.

Trong giai đoạn điều tra nếu không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm mà thời hạn điều tra đã hết thì cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Trong giai đoạn xét xử nếu không đủ căn cứ để xác định bị cáo có tội thi hội đồng xét xử ra bản án tuyên bố bị cáo không có tội.

Pháp luật quy định cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ chứng minh tội phạm. Trong quá trình xác minh, điều tra vụ án hình sự thì cơ quan tiến hành tố tụng phải áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội. Trong quá trình thực hiện các thủ tục tố tụng, lời khai nhận tội (nếu có) cũng không phải là căn cứ duy nhất để kết tội.

Nếu người vi phạm không nhận tội thì cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh bằng chứng cứ, nếu không chứng minh được có hành vi phạm tội hoặc hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm thì mặc nhiên nghi phạm không có tội, phải tuyên bố nghi phạm không có tội, trả tự do cho nghi phạm. Nghi ngờ không phải là xấu, trong tố tụng nghi ngờ là căn cứ để chứng minh tội phạm. Kết quả chứng minh sẽ "giải nghi", minh oan cho người bị nghi ngờ nếu thực sự họ không thực hiện hành vi phạm tội.

Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường (Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội)

Căn cứ pháp lý trả tự do cho 4 nữ tiếp viên hàng không

Trao đổi với phóng viên Pháp lý về vận dụng nguyên tắc suy đoán vô tội trong thực tế vụ 04 nữ tiếp viên hàng không Vietnam Airlines, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường (Văn phòng luật sư Chính Pháp, Đoàn luật sư Hà Nội) cho biết, với nguyên tắc suy đoán vô tội, tôn trọng sự thật khách quan thì không có gì bất ngờ khi cơ quan cảnh sát điều tra trả tự do cho 04 nữ tiếp viên hàng không Vietnam Airlines.

Bởi theo quy định của pháp luật thì đây là trong giai đoạn xác minh tin báo, quá trình tạm giữ để làm rõ hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Nếu kết quả xác minh cho thấy hành vi của bốn nữ tiếp viên hàng không này không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm thì cơ quan điều tra sẽ trả tự do cho nghi phạm.

Theo tiến sĩ Cường, thông tin ban đầu từ phía cơ quan chức năng thì việc cơ quan hải quan phối hợp với lực lượng chức năng phát hiện trong hành lý của các nữ tiếp viên này có chứa chất ma túy với số lượng rất lớn, hành vi có dấu hiệu tội phạm nên cơ quan điều tra tiến hành tạm giữ hình sự, thực hiện thủ tục giữ người trong trường hợp khẩn cấp để tiến hành xác minh làm rõ là có căn cứ, đúng pháp luật.

Cũng theo Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, trong vụ việc này hành vi vận chuyển chất ma túy là có, cơ quan chức năng bắt quả tang vận chuyển chất ma túy là có, tuy nhiên hành vi này chỉ thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm khi những người vận chuyển có lỗi, nhận thức được đây là chất ma túy nhưng vẫn cố tình vận chuyển (hành vi thỏa mãn dấu hiệu về mặt khách quan của tội phạm) thì mới xử lý hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma túy. Còn trường hợp cơ quan điều tra có căn cứ cho thấy có hành vi tàng trữ, vận chuyển chất ma túy nhưng không chứng minh được người tàng trữ, vận chuyển biết đây là chất ma túy, hành vi không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm về mặt chủ quan của tội phạm, nói cách khác người vận chuyển không có lỗi do không biết được đây là chất ma túy thì sẽ không xử lý hình sự đối với họ.

Cho đến nay kết quả xác minh cho thấy lời khai của các nữ tiếp viên này là đúng, họ không biết đây là chất ma túy nên cơ quan điều tra buộc phải trả tự do cho họ để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, của công dân theo quy định của pháp luật.

Lượng lớn ma túy có trong vali hành lý của 4 tiếp viên được ngụy trang trong các tuýp kem đánh răng. (Ảnh: Hải quan TP.HCM)

Luật sư Cường phân tích thêm: Nhiều người đang nhầm lẫn khái niệm "bắt người phạm tội quả tang" và "bắt quả tang vận chuyển chất ma tuý". Chỉ được coi là bắt người phạm tội quả tang nếu như có căn cứ cho thấy người đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, hành vi thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm. Còn nếu trường hợp bắt quả tang người thực hiện hành vi nguy hiểm nhưng chưa có căn cứ cho thấy hành vi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm thì chỉ có thể "tạm giữ" (chứ không phải là bắt khẩn cấp, bắt để tạm giam) để xác minh, hết thời hạn xác minh mà không chứng minh được hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ...

Pháp luật quy định thời hạn tạm giữ là ba ngày và cơ quan tiến hành tố tụng có thể gia hạn hai lần, mỗi lần không quá ba ngày. Như vậy pháp luật quy định tổng thời gian tạm giữ không quá chín ngày, hết thời hạn này mà không chứng minh được người bị tạm giữ thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm thì phải trả tự do cho người bị tạm giữ. Tuy nhiên, với bốn nữ tiếp viên hàng không này thì chưa đến chín ngày, chưa đến thời hạn tối đa mà cơ quan điều tra đã trả tự do cho bốn nữ tiếp viên này thì điều đó chứng tỏ trong những ngày qua kết quả xác minh cho thấy các nữ tiếp viên này không biết đây là chất ma túy nên hành vi không thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định tại điều 250 bộ luật hình sự.

Khi phát hiện ra ma túy trong hành lý của bất kỳ ai thì cơ quan điều tra đều có quyền nghi ngờ người đó có liên quan đến ma túy, tuy nhiên để xác định người đó có biết đây là chất ma túy hay không, có phải ma túy của họ hay không thì cần phải thu thập đánh giá chứng cứ một cách khách quan.

Việc tạm giữ hình sự đối với bốn nữ tiếp viên này hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, bởi vậy trong trường hợp không đủ căn cứ kết tội đối với bốn nữ tiếp viên này thì cơ quan tiến hành tố tụng cũng không phải xin lỗi, bồi thường cho họ. Theo quy định của pháp luật thì một người chỉ được coi là có tội khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật, nếu khởi tố, tạm giam nhưng không chứng minh được tội phạm thì cơ quan tiến hành tố tụng phải trả tự do và xin lỗi phải bồi thường đối với người đã bị khởi tố. Còn đối với người bị tạm giữ, việc tạm giữ là có căn cứ, cơ quan điều tra chưa khởi tố, chưa tạm giam thì thời gian tạm giữ không được xác định là thiệt hại, người bị tạm giữ không có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Khởi tố vụ án, tiếp tục điều tra làm rõ

Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường phân tích thêm, theo quy định của bộ luật hình sự thì tội vận chuyển trái phép chất ma túy được quy định tại điều 250 bộ luật hình sự, theo đó người thực hiện hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy phải biết rõ chất mà mình vận chuyển là chất ma túy (các chất trong danh mục chất ma túy được nhà nước quy định), phải nhận thức được hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi vì vụ lợi hoặc vì động cơ cá nhân khác thì hành vi mới thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Còn trường hợp người nào tàng trữ, vận chuyển chất ma túy nhưng không biết đó là chất ma túy thì hành vi không thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm.

Về mặt lý luận thì tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến khách thể mà pháp luật hình sự bảo vệ. Vì vậy theo quy định của pháp luật thì một người chỉ bị xử lý hình sự nếu có hành vi nguy hiểm cho xã hội và hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm (mặt chủ quan, mặt khách quan, chủ thể và khách thể của tội phạm). Hành vi được coi là thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm nếu hành vi được thực hiện do chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự, có lỗi, xâm phạm đến khách thể mà luật hình sự bảo vệ.

Hiện cơ quan CSĐT Công an TPHCM đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, mở rộng điều tra, truy xét. Mặc dù, 04 nữ tiếp viên hàng không Vietnam Airlines đã được trả tự do. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra hoàn toàn có thể khởi tố bị can bất kỳ lúc nào, đối với bất kỳ ai nếu có căn cứ cho thấy người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, hành vi thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm.

Bởi vậy trường hợp quá trình điều tra vụ án này mà có các chứng cứ tài liệu khác chứng minh các nữ tiếp viên này đã thực hiện hành vi phạm tội vận chuyển trái phép chất ma túy hoặc tội khác thì cơ quan điều tra vẫn có thể khởi tố bị can, vẫn có thể bắt tạm giam để tiến hành điều tra theo quy định pháp luật. Tiến Sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường cho hay.

 Đinh Chiến

Link nội dung: https://phaply.net.vn/van-dung-nguyen-tac-suy-doan-vo-toi-nhin-tu-viec-tra-tu-do-4-tiep-vien-hang-khong-vietnam-airlines-a256637.html