Tập trung thực thi có hiệu quả nhóm giải pháp hỗ trợ DNNVV phát triển bền vững
Tình hình hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (2016 - 2020)
Trong giai đoạn 5 năm 2016 - 2020, thực hiện chủ chương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế, Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết liệt, đặt trọng tâm vào phát triển doanh nghiệp, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt, trong gần 2 năm trở lại đây, đại dịch Covid 19 đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành kịp thời các chính sách, giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện duy trì và sớm phục hồi sản xuất kinh doanh. Nhìn tổng thể khu vực doanh nghiệp Việt Nam, trong đó đa phần là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong giai đoạn 5 năm vừa qua, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Bình quân giai đoạn 2016 - 2020, tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp thành lập của cả nước đạt 10,5%, tăng gấp hai lần so với giai đoạn 2011 - 2015 [1], tốc độ gia tăng số doanh nghiệp hoạt động là 15%, đến 31/12/2020, Việt Nam có 811.538 DN đang hoạt động [2], tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước trong tổng mức đầu tư toàn xã hội liên tục tăng từ 36,7% lên hơn 45% năm 2020. Năng suất lao động của kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp tục được cải thiện, có tốc độ tăng cao hơn so với mức trung bình.
Tuy nhiên, khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), vẫn đang gặp phải những khó khăn, đó là: i) DN quy mô nhỏ và siêu nhỏ chiếm số lượng chủ yếu; ii) đóng góp của khu vực DNNVV chưa thực sự có sự thay đổi lớn, đặc biệt là trong xuất khẩu; năng lực khoa học- công nghệ còn thấp, năng lực cạnh tranh còn hạn chế, do quy mô nhỏ nên rất nhiều doanh nghiệp trong nước chưa đủ năng lực cạnh tranh để xuất khẩu sang thị trường nước ngoài, khó tham gia vào mạng lưới sản xuất và các chuỗi giá trị toàn cầu; iii) Cơ cấu ngành nghề chưa đa dạng và thiếu nhạy bén với thị trường, chủ yếu tập trung hoạt động lĩnh vực thương mại, dịch vụ, trong khi chỉ có 1% đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp; iv) hiệu suất sử dụng vốn (hệ số ICOR) của DNNVV vẫn thấp, đặc biệt so với khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và không có nhiều cải thiện trong một thời gian dài.
Trong gần 2 năm trở lại đây, đặc biệt khi đại dịch Covid 19 bùng phát tác động rất mạnh tới 95% các DNNVV, làm đứt gãy chuỗi cung ứng, nguồn nhân lực bị sáo trộn, sức ép thanh toán nợ ngân hàng gia tăng, nhiều doanh nghiệp đã bị chuyển khoản nợ sang nợ xấu.[3], nhiều doanh nghiệp phải rút lui khỏi thị trường.
Năm 2022, cả nước có 148.500 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.590,9 nghìn tỷ đồng; tăng 27,1% về số doanh nghiệp, nhưng giảm 1,3% về vốn đăng ký so với năm 2021.
Vai trò của công tác xây dựng và hoàn thiện thể chế đối với sự phát triển của cộng đồng doanh nghiệp trong thời gian vừa qua.
- Cộng đồng doanh nghiệp nhận thấy, sau khi có Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII. Công tác xây dựng thể chế tiếp tục được đặc biệt quan tâm, kết quả nhận thấy.
- Thứ nhất, trong khâu xây dựng thể chế.
i) Khung pháp luật, chính sách về tổ chức và hoạt động của các cơ sở kinh doanh nói chung và khu vực doanh nghiệp nói riêng tiếp tục được hoàn thiện, bổ sung đầy đủ nhằm tạo cơ sở pháp lý và điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển [4];
ii) Chất lượng môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ nét; Rào cản pháp lý và quy định về điều kiện kinh doanh tiếp tục được gỡ bỏ và đơn giản hoá;
Các Bộ, ngành và địa phương đã tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP (trước đây là Nghị quyết 19 từ năm 2015 - 2018). Kết quả thực hiện đã cho thấy nhận thức về tầm quan trọng của cải thiện môi trường kinh doanh, chất lượng môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia có cải thiện rõ nét. Công nghệ thông tin được áp dụng rộng hơn trong cung cấp các dịch vụ hành chính công ở các cấp từ Trung ương tới địa phương. Ở một số địa phương, hầu hết các dịch vụ thuộc thẩm quyền giải quyết của các Sở ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện đã được thực hiện ở cấp độ 4, tức là nhận hồ sơ, xử lý hồ sơ, chấp thuận và trả kết quả đều được thực hiện trong môi trường kết nối điện tử trực tuyến.[5] số lượng doanh nghiệp thành lập mới không ngừng tăng lên hàng năm, năm sau tăng hơn năm trước.
iii) Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và vận hành đồng bộ các loại thị trường.
Các cơ chế, chính sách nhằm phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục được Chính phủ và các cơ quan liên quan triển khai trên cơ sở các nhiệm vụ trong chương trình kế hoạch hàng năm cũng như các nhiệm vụ cụ thể được giao. Các loại thị trường ngày càng phát triển theo hướng thị trường và hiệu quả hơn. Đặc biệt đối với các loại thị trường phục vụ yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh doanh như thị trường tài chính, thị trường đất đai, KHCN, lao động, bảo hiểm... tiếp tục được hoàn thiện cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Vai trò của Nhà nước từng bước được điều chỉnh, đi đôi với phát huy tốt hơn vai trò của thị trường.
iv) Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế và nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.
Khuôn khổ pháp luật về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh, Việt Nam đã chủ động hội nhập, ký kết nhiều hiệp định FTA, rà soát khung pháp luật trong nước để đảm bảo phù hợp với các cam kết.
- Thứ hai, Sự tham gia xây dựng thể chế của các tổ chức đại diện doanh nghiệp.
Quá trình xây dựng thể chế, chính sách pháp luật, các Cơ quan chủ trì soạn thảo đã chủ động phát huy vai trò tham gia của các tổ chức đại diện doanh nghiệp bằng nhiều hình thức, hiệu quả góp ý xây dựng thể chế được nâng lên rõ nét, tiếng nói của nhiều tổ chức đại diện doanh nghiệp như VINASME, VCCI và nhiều hiệp hội ngành hàng khác đã được phản ánh kịp thời trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách. Hàng năm, các hội nghị đối thoại giữa doanh nghiệp với Chính phủ và giữa Chính quyền địa phương với doanh nghiệp được tổ chức, thông qua hội nghị, nhiều vướng mắc, bất cập trong thực thi chính sách, pháp luật đã kịp thời được tháo gỡ.
- Thứ ba, Tác động của chính sách, thể chế.
Tác động của công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế và những hoạt động hỗ trợ pháp lý, phổ biến pháp luật cho người dân và doanh nghiệp đã thúc đẩy thực thi pháp luật, mang lại những tác động to lớn trong đời sống kinh tế xã hội, môi trường đầu tư kinh doanh được thuận lợi, tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, chuyển đổi số trong nền kinh tế được đẩy mạnh, Việt Nam là một trong những nước hàng đầu ở Đông Nam Á về tỷ lệ người dân sử dụng internet và điện thoại thông minh.
Trong thực thi pháp luật, Chính phủ đã tăng cường xử lý, từng bước ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc. Trong đó, đưa ra 4 nhóm giải pháp, gồm (i) Tăng cường trách nhiệm người đứng đầu trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống tham nhũng; (ii) Thực hiện cải cách hành chính, tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, đổi mới công nghệ quản lý; (iii) Tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, hỗ trợ pháp lý, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức xã hội; (iv) Tăng cường thanh tra, kiểm tra công vụ; xây dựng cơ chế giám sát, phát hiện vi phạm.
Có thể nói, với những cố gắng nỗ lực trong xây dựng thể chế và tổ chức thi hành pháp luật, điểm số về mức độ tự do kinh tế của Việt Nam năm 2021 đạt 61,7 điểm, lần đầu tiên Việt Nam đã lọt nhóm nền kinh tế có “Chỉ số tự do kinh tế ở mức trung bình”, trở thành nền kinh tế tự do đứng thứ 90/178 nền kinh tế trong bảng xếp hạng năm 2021.
Đây là những tiền đề quan trọng để nền kinh tế nước ta tuân theo những chuẩn mực phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế.[6]
Những khó khăn vướng mắc trong xây dựng thể chế và thi hành pháp luật
Mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực, Tuy nhiên trong quá trình góp ý xây dựng thể chế và thi hành các quy định pháp luật, dưới góc độ quan sát của cộng đồng doanh nghiệp, vẫn nhận thấy nhiều các khó khăn, bất cập, cụ thể như sau.
- Khung pháp luật và chính sách đối với phát triển kinh tế nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng vẫn còn nhiều những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu tính hợp lý, ổn định, nhất quán, chưa thực sự đồng bộ. Một số quy định và chính sách được ban hành chưa phù hợp, tính khả thi thấp, chưa tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát triển, chưa huy động được nguồn lực nhàn dỗi trong nhân dân.
- Rủi ro pháp lý trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vẫn rất cao và khó đoán định. Mặc dù quy định ở cấp độ Luật và Nghị định tương đối ổn định qua các năm song các quy định hướng dẫn ở cấp độ Thông tư, đặc biệt là Văn bản chỉ đạo điều hành vẫn rất lớn. Hiện nay, tính bình quân hàng năm vẫn có khoảng gần 500 Thông tư và khoảng từ trên 2.000 đến gần 4.000 văn bản chỉ đạo điều hành có tính chất quy phạm pháp luật (QPPL) được ban hành. Điều này tạo không ít khó khăn và rủi ro cho doanh nghiệp do sự mâu thuẫn, chồng chéo, từ đó sẽ dẫn đến tình trạng khó có thể tuân thủ và tuân thủ đúng các Quy định, Hướng dẫn. Ngoài ra, việc có nhiều các Quy định, Hướng dẫn cũng sẽ tạo điều kiện dễ dẫn đến tình trạng một số cá nhân hạch sách, nhũng nhiễu đối với doanh nghiệp.
Vấn đề “hậu kiểm” vẫn đang là một thách thức lớn trong hoạt động kinh doanh, đây vẫn được coi như là một trong những “cớ” để các cơ quan liên quan can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp, thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra. Việc thanh tra, kiểm tra theo yêu cầu của hoạt động “hậu kiểm” vẫn có thiên hướng nhằm phát hiện vi phạm để xử lý hơn là hỗ trợ, giúp doanh nghiệp tuân thủ pháp luật tốt hơn.
- Cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hoá, cắt giảm điều kiện kinh doanh, kiểm tra chuyên ngành để cải thiện môi trường kinh doanh chưa được thực hiện đồng bộ ở các Bộ, Ngành và Địa phương, nên hiệu quả chưa cao, vẫn còn các điều kiện đầu tư kinh doanh bất hợp lý, yêu cầu những giấy tờ con trái quy định[7]. Thiếu cơ chế chính sách để thí điểm các mô hình kinh doanh mới. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, tin học hoá các quy trình tiếp nhận, chuyển giao thủ tục hành chính, xây dựng cơ sở dữ liệu sử dụng chung giữa các Bộ, Ngành, mặc dù đã được cải thiện song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế.
- Một số loại thị trường chậm được hình thành và phát triển, vận hành còn vướng mắc, kém hiệu quả, ví dụ: Thị trường khoa học công nghệ (KHCN) chậm phát triển, rất ít các Tổ chức trung gian trong việc tư vấn, định giá, kết nối cung cầu về KHCN, chưa có cơ chế để thí điểm các mô hình kinh doanh mới dựa trên nền tảng KHCN, thị trường lao động chậm dịch chuyển, vẫn còn tình trạng mất cân đối cung cầu lao động cục bộ[8]. Một số loại tài sản của doanh nghiệp chưa có cơ chế đăng ký, giao dịch bảo đảm.
- Việc đánh giá vị trí, vai trò, tầm quan trọng của các tổ chức đại diện doanh nghiệp trong quá trình tham gia xây dựng thể chế, chính sách, pháp luật còn mờ nhạt, chưa đồng đều giữa các Cơ quan, Bộ, Ngành. Năng lực góp ý xây dựng thể chế của nhiều Tổ chức đại diện doanh nghiệp còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của Hội viên.
- Đối với việc thi hành pháp luật còn chưa thực sự hiệu quả, chưa gắn kết giữa xây dựng pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật, vẫn còn nhiều tồn tại, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư kinh doanh, hệ sinh thái hoạt động của doanh nghiệp, thể hiện.
+ Trình độ của cán bộ chưa đáp ứng được sự thay đổi, đặc biệt là trong giai đoạn có sự phát triển nhanh chóng của Cách mạng khoa học công nghệ lần thứ 4 (CMCN 4.0).
+ Vẫn còn sự phân biệt đối xử trong cách ứng xử của cán bộ khi tiếp xúc, làm việc giữa khu vực tư nhân với khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, thậm chí là giữa các doanh nghiệp, cơ sở trong chính khu vực tư nhân.
+ Chế tài xử lý vi phạm chưa thực sự nghiêm minh, cơ chế giải quyết vi phạm qua kênh tư pháp chưa được phát huy được hiệu quả.
Vai trò của Nhà nước từng bước được điều chỉnh, đi đôi với phát huy tốt hơn vai trò của thị trường.
Những đề xuất, kiến nghị về xây dựng thể chế và thi hành pháp luật nhằm tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay.
Từ những kết quả đã đạt được, tồn tại, hạn chế như đã phân tích trên, Hiêp hội DNNVV Việt Nam kiến nghị Chính phủ và các cơ quan có liên quan như sau:
4.1. Cần tiếp tục nâng cao nhận thức trong cán bộ, công chức thừa hành công vụ và đội ngũ Doanh nhân, Chủ sở hữu doanh nghiệp về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhằm tạo sự thống nhất trong tư duy và nhận thức.
4.2. Thiết lập một kênh phản hồi và tiếp thu những bất cập về thể chế một cách thường xuyên và hiệu quả. Chúng ta đang hướng tới mục tiêu là “xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN của VN phù hợp theo các chuẩn mực phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập”
Trước bối cảnh đang có sự thay đổi nhanh chóng của CMCN 4.0, Trong khi đó, khi xây dựng thể chế, bộ phận không nhỏ cán bộ hiện nay vẫn nặng về tư duy quản lý. Vì vậy, cần thiết lập các công cụ hữu hiệu để giám sát quá trình hoàn thiện thể chế, để có thể kết luận rằng: “các chuẩn mực phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập” đã đạt được hay chưa?
4.3. Cần có những giải pháp đột phá thúc đẩy sự phát triển của một số loại thị trường trong giai đoạn tới, trong đó có thị trường bất động sản, thị trường KHCN… cho DNNVV. Thể chế kinh tế thị trường là một chỉnh thể gồm nhiều loại thị trường vận động đồng bộ trong chỉnh thể đó. Khi một loại thị trường không phát triển đầy đủ sẽ kìm giữ sự vận động của các thị trường khác và làm cản trở sự vận động chung. Trong bối cảnh đó, rất dễ dẫn đến sự can thiệp hành chính vào các quá trình kinh tế. Sự can thiệp này có thể giải quyết những khó khăn trước mắt nhưng chi phí sẽ lớn hơn cơ hội tạo ra và làm sai lệch quá trình phát triển. Rốt cuộc, những vấn đề cơ bản vẫn không được giải quyết.
Ví dụ: Để DNNVV tiếp cận mặt bằng sản xuất một cách dễ ràng, thuận lợi, thì chính sách thuế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho nhà đầu tư cơ sở hạ tầng phải rõ ràng, nhất quán, ngay cả việc kêu gọi đầu tư vào các cơ sở hạ tầng xã hội như Khu lưu trú cho người lao động, trường học, thiết chế văn hóa cho người lao động, thì những chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho nhà đầu tư cơ sở hạ tầng phải rất rõ ràng.
Hoặc: Để thúc đẩy DN chuyển đổi số trong DN, ngoài vấn đề hạ tầng số, dữ liệu số thì Thương mại điện tử phải được coi là trụ cột, do đó vấn đề hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hoạt động thương mại điện tử phải được coi là vấn đề cấp bách, nhiều hình thức kinh doanh mới sẽ được hình thành trên nên tảng TMĐT cần được điều chỉnh.
4.4. Từ quan điểm chính trị chủ đạo của Đảng và Nhà nước là phát huy dân chủ, chúng ta phải bảo đảm quyền của người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận thông tin và phản biện xã hội, Vì vậy, trong quá trình xây dựng chính sách, các Đề án phát triển, cần tiếp tục công khai thông tin và quyền tiếp cận thông tin, đồng thời tăng cường đối thoại, giải trình chính sách, các Đề án phát triển giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với các Tổ chức đại diện doanh nghiệp, chuyên gia độc lập, trước khi các quyết định được ban hành. Đây cũng được coi là biện pháp cơ bản để ngăn ngừa tham nhũng và sự tác động của các “nhóm lợi ích” vào quá trình ra quyết định, bảo đảm cho các quyết định theo chuẩn “giá trị chung”, vì lợi ích của đất nước, của dân tộc.
4.5. Đề nghị Chính phủ sớm có đề nghị sửa đổi Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017, theo hướng:
+ Từng bước chuyển hướng các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp từ chiều rộng, dàn trải sang chiều sâu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp cơ cấu lại năng lực sản xuất, nhằm phát triển ổn định, lâu dài. Tập trung thực thi có hiệu quả nhóm giải pháp hỗ trợ DNNVV phát triển bền vững, phát triển chuỗi giá trị và liên kết vùng nhằm phát huy tối đa lợi thế cạnh tranh, định hướng xuất khẩu; Khuyến khích doanh nghiệp áp dụng triệt để hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn theo chuẩn mực quốc tế, áp dụng thông lệ quản trị DN tiên tiến, áp dụng công nghệ sản xuất sạch, thân thiện với môi trường, sử dụng hiệu quả tài nguyên, phát triển quan hệ lao động hài hòa.
+ Khuyến khích, thúc đẩy khởi nghiệp, chú trọng khởi nghiệp sáng tạo trong một số ngành có lợi thế và tiềm năng; Tạo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa mô hình kinh doanh mới và kinh tế truyền thống; Tiếp tục rà soát, bãi bỏ các quy định về điều kiện kinh doanh không phù hợp; Xây dựng khung thể chế thí điểm cho mô hình kinh doanh mới trong một số lĩnh vực đổi mới sáng tạo, nằm ngoài danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
4.6. Nâng cao hiệu quả công tác thi hành pháp luật, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, thái độ, trách nhiệm của cán bộ công chức trong thừa hành công vụ khi giao dịch, tiếp xúc, phục vụ doanh nghiệp.
Tham luận của Tổ thư ký của Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
[1] Trong giai đoạn 2016- 2010, trung bình mỗi năm có khoảng 120 nghìn doanh nghiệp thành lập mới.
[2] Năm 2022 có 148.500 DN được thành lập mới.
[3] Trung bình mỗi tháng trong 6 tháng đầu năm 2022 có gần 11,9 nghìn doanh rút lui khỏi thị trường.
[4] 31 Luật được ban hành, trong đó có nhiều luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp được sửa đổi.
[5] Nhiều chỉ số trong bảng xếp hạng về môi trường kinh doanh hàng năm của VN đều tăng, VD chỉ số nộp thuế, tiếp cận tín dụng,
[6] Theo Heritage Foundation 2021.
[7] Xuất hiện các yêu cầu xác nhận về nhân thân khi thực hiện thay thế sổ hộ khẩu.
[8] Sau khi trải qua Dịch Covid 19 cung cầu về lao động có sự sáo động.
Link nội dung: https://phaply.net.vn/mot-so-kien-nghi-nham-thuc-day-su-phat-trien-cua-doanh-nghiep-nho-va-vua-trong-boi-canh-hien-nay-a256601.html