Qui định pháp luật về cổ phần hóa và thoái vốn Nhà nước
Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động cổ phần hóa và thoái vốn hiện nay được quy định rải rác tại các Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp… và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Mới đây nhất, Chính phủ ban hành Nghị định 140. Nghị định 140 được ban hành trên cơ sở sửa đổi bổ sung 03 Nghị định: 126, 91 và 32. Các nghị định này quy định về việc chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và quy định về việc quản lý và sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp.
Nghị định 140 sửa đổi, bổ sung một số nội dung nhằm đảm bảo việc thoái vốn nhà nước theo nguyên tắc thị trường, công khai, minh bạch thu hồi vốn đầu tư ở mức cao nhất và hạn chế tối đa tổn thất đầu tư trong chuyển nhượng vốn.
Nghị định quy định, việc xác định giá khởi điểm phải xác định đầy đủ giá trị thực tế phần vốn đầu tư ra ngoài bao gồm giá trị được tạo bởi quyền sử dụng đất giao có thu tiền sử dụng đất, quyền sử dụng đất nhận chuyển nhượng hợp pháp, quyền sử dụng đất thuê (thuê trả tiền một lần cho cả thời gian thuê, thuê trả tiền hàng năm) theo quy định của pháp luật. Việc xác định giá trị thương hiệu (trong đó bao gồm giá trị văn hóa, lịch sử) vào giá khởi điểm để chuyển nhượng vốn thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.
Việc sử dụng một mức giá khởi điểm để thực hiện chuyển nhượng vốn đảm bảo nguyên tắc thời gian tối đa không quá 6 tháng kể từ thời điểm chứng thư thẩm định giá có hiệu lực đến ngày giao dịch cuối cùng (đối với trường hợp giao dịch trên sàn giao dịch chứng khoán); hoặc tính đến ngày công bố trúng giá chuyển nhượng vốn (đối với phương thức đấu giá công khai, chào bán cạnh tranh) hoặc tính đến ngày ký hợp đồng chuyển nhượng vốn (theo phương thức thỏa thuận).
Trường hợp chuyển nhượng vốn tại các doanh nghiệp chưa niêm yết hoặc đăng ký giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán mà tỷ lệ vốn nắm giữ dưới 36% và giá trị sổ sách dưới 10 tỷ đồng thì được xem xét, quyết định thuê tổ chức thẩm định giá hoặc tự quyết định mức giá khởi điểm. Nhưng phải đảm bảo giá trị chuyển nhượng không thấp hơn giá trị thực của phần vốn góp. Giá trị thực của phần vốn góp được xác định theo giá trị vốn chủ sở hữu ghi trên sổ sách kế toán và tỷ lệ góp vốn của doanh nghiệp do Nhà nước.
Trường hợp chuyển nhượng vốn tại các công ty đã niêm yết hoặc đăng ký giao dịch, giá khởi điểm không được thấp hơn các mức giá gồm giá xác định của tổ chức thẩm định giá; giá tham chiếu bình quân 30 ngày liên tiếp của cổ phiếu; giá tham chiếu trước ngày phê duyệt phương án chuyển nhượng vốn 1 ngày.
Đối với công ty cổ phần đã niêm yết hoặc đăng ký giao dịch mà tổng khối lượng cổ phần có giá trị dưới 10 tỷ đồng, doanh nghiệp xem xét, quyết định việc thuê tổ chức thẩm định giá hoặc tự quyết định mức giá khởi điểm. Giá khởi điểm phải không thấp hơn giá tham chiếu bình quân 30 ngày liên tiếp và giá tham chiếu trước ngày phê duyệt phương án chuyển nhượng vốn 1 ngày.
Ảnh minh họa
Một quy định rất đáng chú ý mà Nghị định 140 qui định trong việc thoái vốn Nhà nước được bổ sung là thời hạn Sở Giao dịch chứng khoán công bố thông tin về giao dịch chuyển nhượng vốn tới các nhà đầu tư tối thiểu là 20 ngày trước ngày chuyển nhượng vốn.
Một nội dung được quan tâm trong vấn đề xác định giá trị phần vốn nhà nước đó là giá trị được tạo bởi quyền sử dụng đất. Trên thực tế, các doanh nghiệp có vốn Nhà nước thường thuê đất có trả tiền hàng năm. Nếu chỉ xem xét giá trị tiền thuê đất thì phần giá trị này rất thấp, không tương xứng với lợi thế từ đất đai.
Do đó, Nghị định 140 quy định, việc xác định giá trị được tạo bởi quyền sử dụng đất giao có thu tiền sử dụng đất, quyền sử dụng đất nhận chuyển nhượng hợp pháp và quyền sử dụng đất thuê trả tiền một lần cho cả thời hạn thuê trong giá khởi điểm được thực hiện theo giá đất do tổ chức tư vấn xác định tại thời điểm xác định giá khởi điểm so với tiền sử dụng đất, tiền nhận chuyển nhượng, tiền thuê đất mà doanh nghiệp khác đã thực hiện nộp và trả.
Chỉ thực hiện xác định giá trị được tạo bởi quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm trong giá khởi điểm đối với diện tích đất đã và đang trực tiếp ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Giá trị được tạo bởi quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm trong giá khởi điểm được xác định theo thời hạn thuê đất còn lại và chênh lệch (nếu có) giữa tiền thuê đất tính theo giá đất do tổ chức tư vấn xác định tại thời điểm xác định giá khởi điểm với tiền thuê đất tính theo giá đất mà doanh nghiệp khác đang thực hiện trả tiền thuê đất.
Thời hạn thuê đất còn lại làm cơ sở tính toán giá trị được tạo bởi quyền sử dụng đất thuê trả tiền hàng năm trong giá khởi điểm là thời gian còn lại trong chu kỳ ổn định đơn giá thuê đất 5 năm theo quy định của pháp luật đất đai. Trường hợp doanh nghiệp đã ký hợp đồng thuê đất nhưng hết hạn thời gian ổn định đơn giá thuê đất mà doanh nghiệp chưa ký lại hợp đồng thì thời hạn thuê đất còn lại được xác định là 5 năm.
Đối với trường hợp doanh nghiệp thuê đất và được miễn tiền thuê đất theo quy định của pháp luật đất đai thì diện tích đất thuê được miễn tiền thuê đất được loại trừ khi xác định giá khởi điểm để chuyển nhượng vốn.
Thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Việc thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhằm nhiều mục tiêu: Thứ nhất, thoái vốn nhà nước là một cách thức để Nhà nước rút vốn đầu tư tại các doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh mà nhà nước không cần nắm giữ vốn để tập trung đầu tư vào các doanh nghiệp, lĩnh vực then chốt cần có sự đầu tư của nhà nước. Thứ hai, nguồn vốn thu được thông qua thoái vốn ở nhiều doanh nghiệp cũng giúp Chính phủ có thêm vốn để đầu tư công, từ đó thúc đầy nền kinh tế phát triển và tạo môi trường cho doanh nghiệp phát triển kinh doanh. Thứ ba, đối với doanh nghiệp mà nhà nước thoái vốn sẽ đa dạng hóa cổ đông, thu hút cổ đông chiến lược có năng lực, giúp doanh nghiệp có thêm các lợi ích về vốn, kỹ thuật, công khai, minh bạch trong quản trị doanh nghiệp.
Việc thoái vốn nhà nước được thực hiện theo các hình thức chuyển nhượng vốn nhà nước tại doanh nghiệp như: Chuyển nhượng cổ phiếu trên sàn giao dịch chứng khoán đối với công ty niêm yết; đấu giá công khai đối với vốn tại công ty cổ phần chưa niêm yết; nếu không đấu giá công khai được thì thực hiện chào hàng cạnh tranh; nếu chào hàng cạnh tranh không được thì thực hiện chuyển nhượng vốn qua thỏa thuận. Việc thoái vốn nhà nước phải đảm bảo các nguyên tắc theo quy định tại khoản 15, Điều 1 Nghị định số 32/2018/NĐ-CP ngày 08/3/2018 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 91/2015/NĐ-CP ngày 13/10/2015 của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp. Hiện nay, nguồn vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp có giá trị rất lớn.
Theo báo cáo số 399/BC-CP ngày 12/10/2021 của Chính phủ về hoạt động đầu tư, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc thì tổng tài sản của doanh nghiệp có vốn nhà nước là 3.674.627 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu là 1.717.379 tỷ đồng. Với nguồn vốn, tài sản lớn như vậy thì việc thoái vốn nhà nước cần được kiểm soát chặt chẽ. Việc thoái vốn nhà nước phải đảm bảo các yêu cầu: (1) Đảm bảo lợi ích của nhà nước khi thoái vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Tiền thu được từ việc thoái vốn phải thu nộp ngân sách theo đúng giá trị; (2) Đảm bảo sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp; (3) Đảm bảo đúng định hướng đầu tư của Nhà nước gắn với phát triển kinh tế, xã hội.
Ảnh minh họa
Theo Bộ Tài chính, về tình hình thoái vốn doanh nghiệp nhà nước, lũy kế giai đoạn 2016 – 2020, thoái vốn nhà nước tại 106 đơn vị thuộc Quyết định số 1232/QĐ-TTg và Quyết định số 908/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ đạt 30% về số lượng và 11% về giá trị so với kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Từ năm 2021 đến 5 tháng đầu năm 2022, đã thoái vốn tại 38 doanh nghiệp với giá trị 2.047 tỷ đồng, thu về 6.582 tỷ đồng trong đó thoái vốn nhà nước tại 04 doanh nghiệp thuộc Quyết định số 908/QĐ-TTg với giá trị 52,8 tỷ đồng thu về 85,1 tỷ đồng, còn lại là thoái vốn của Tập đoàn, Tổng công ty tại doanh nghiệp. Lũy kế 10 tháng đầu năm 2022, ghi nhận các tập đoàn, tổng công ty, DNNN thoái vốn tại doanh nghiệp với giá trị là 526,5 tỷ đồng, thu về 3.361,7 tỷ đồng.
Một số vấn đề đặt ra
Thứ nhất, bên cạnh những kết quả đạt được, nhìn chung, tiến độ và số lượng DN thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn trong giai đoạn vừa qua còn chậm, chưa đảm bảo theo kế hoạch đề ra. Tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn chưa đạt được như kế hoạch xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm cả khách quan và chủ quan. Lý giải nguyên nhân dẫn đến tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn chậm, Cục Tài chính doanh nghiệp cho hay, doanh nghiệp cổ phần hóa, thoái vốn có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, đa ngành, đa lĩnh vực, nhiều tài sản chuyên ngành, khó xác định giá trị nên việc xử lý tài chính tài sản, nợ, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị phần vốn nhà nước và công tác chuẩn bị hồ sơ, phương án cần nhiều thời gian; một số doanh nghiệp còn tồn tại nhiều vấn đề phải xử lý về tài chính; một số đơn vị vi phạm quy định về quản lý vốn, tài sản đang thực hiện thanh tra, kiểm tra, điều tra.
Về nguyên nhân chủ quan, việc cổ phần hóa, thoái vốn còn chậm xuất phát từ khâu thực thi các văn bản quy phạm pháp luật. Mặc dù, hệ thống văn bản về cổ phần hóa, thoái vốn đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn (đặc biệt các vấn đề liên quan đến định giá quyền sử dụng đất, giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển, kiểm kê xử lý tài sản chuyên ngành...). Đồng thời, việc xây dựng và phê duyệt phương án sử dụng đất của toàn bộ diện tích đất đang quản lý, sử dụng trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, quyết định còn chậm làm ảnh hưởng đến tiến độ cổ phần hóa. Một số địa phương chưa kiên quyết thu hồi, xử lý đất đai của DN sử dụng không đúng mục đích, không đúng quy hoạch; việc xác định giá đất làm căn cứ để xác định giá trị DN còn chậm. Về phía DN, thực tiễn cho thấy một số DN quản lý sử dụng đất chưa hiệu quả, hồ sơ pháp lý về đất không được hoàn thiện theo quy định, còn tâm lý giữ lại toàn bộ diện tích đất đai như trước để khai thác mặc dù chưa đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương và không phù hợp với mục tiêu, ngành nghề kinh doanh của DN.
Một nguyên nhân chủ quan khác được Bộ Tài chính chỉ ra là vai trò, nhận thức, trách nhiệm của người đứng đầu doanh nghiệp, đơn vị còn chưa cao, chưa quyết liệt trong việc đổi mới hoạt động của doanh nghiệp, công khai minh bạch, đúng quy định pháp luật. Một số Bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước chưa quan tâm đúng mức đến việc sắp xếp, xử lý nhà, đất.
Nội tại DNNN chậm đổi mới, chưa theo kịp và thích ứng với yêu cầu và bối cảnh phát triển kinh tế thị trường. Công tác lập kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn còn hình thức, thiếu khả thi và chưa sát với thực tế. Còn tư tưởng không muốn thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất sinh lời cao làm cho tiến độ thoái vốn chậm lại. Việc phối hợp giữa các cơ quan đại diện chủ sở hữu với các Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố, Bộ, ngành liên quan trong việc thực hiện lập, phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà, đất theo quy định về sắp xếp lại, xử lý tài sản công còn chưa tốt, tiến độ tham gia ý kiến, phê duyệt còn chậm.
Thứ hai, cổ phần hóa, thoái vốn vẫn chưa đảm bảo được về “chất”: Trên thực tiễn, một số DN sau khi cổ phần hóa thì tỷ lệ vốn Nhà nước nắm giữ còn cao (như Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam, Tổng công ty Hàng không Việt Nam, Tổng công ty Đầu tư và Phát triển công nghiệp Becamex...) nên cũng chưa hấp dẫn các nhà đầu tư, đặc biệt trong việc thu hút nhà đầu tư chiến lược. Một số DN sau cổ phần hóa hoạt động chưa hiệu quả, chưa có nhiều thay đổi về quản trị khi tỷ lệ vốn nhà nước tại DN còn cao. Trên thực tế, dù đã cổ phần hóa nhưng cổ đông nhà nước vẫn nắm quyền quyết định nên thực chất không có nhiều đổi mới, nên hoạt động kinh doanh sau cổ phần hóa ngày càng đi xuống (Tổng công ty cổ phần lương thực Miền Nam, Tổng công ty cổ phần xây dựng Sông Hồng…). Một số DN thực hiện thoái vốn nhưng thực hiện chưa triệt để. Công tác cổ phần hóa, thoái vốn của một số bộ, ngành, địa phương còn một số hạn chế, đặc biệt liên quan đến đất đai, dẫn đến làm thất thoát vốn và tài sản của Nhà nước.
Toàn cảnh khu đất “vàng” số 2-4-6 Hai Bà Trưng, quận 1.
Thứ ba, việc thoái vốn với các công ty có vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chỉ tuân theo Luật Doanh nghiệp, Điều lệ công ty có thể bị lợi dụng, dẫn đến thất thoát trong quá trình thoái vốn. Đặc biệt trường hợp công ty mẹ là doanh nghiệp nhà nước chuyển giao cho công ty con quyền sử dụng đất ở vị trí đắc địa, sau đó quyền sử dụng đất được mang đi góp vốn, rồi lợi dụng việc thoái vốn để chuyển quyền sử dụng đất vào tay tư nhân. Một số doanh nghiệp thực hiện thoái vốn không thực hiện qua sở giao dịch chứng khoán, mà lựa chọn thuê tổ chức tài chính trung gian bán đấu giá, tự tổ chức đấu giá tại doanh nghiệp. Vì nếu đấu giá thông qua tổ chức tài chính trung gian bán đấu giá, tự tổ chức đấu giá tại doanh nghiệp thành phần tham gia cũng như địa điểm đấu giá thường bị hạn chế sẽ dễ chi phối. Việc pháp luật trao quyền cho doanh nghiệp có chức năng thẩm định giá quá lớn mà thiếu sự kiểm tra, giám sát đã dẫn đến những lỗ hổng trong thẩm định giá khi thoái vốn. Đây là lỗ hổng thể hiện rõ trong vụ án xảy ra tại Sabeco. Trên cơ sở thẩm định giá, Bộ Công thương phê duyệt giá khởi điểm khi thoái vốn là 13.247 đồng/cổ phiếu. Trong khi đó, khu đất 6.080 m2 tại địa chỉ 2 – 4 - 6 Hai Bà Trưng, TP.HCM do Sabeco mang đi liên doanh góp vốn có vị trí đắc địa với 4 mặt tiền đường Hai Bà Trưng, Thi Sách, Công trường Mê Linh, Đông Du.
Thứ tư, còn tồn tại các vấn đề về hậu cổ phần hóa. Một số DN sau cổ phần hóa không tiếp tục duy trì việc làm cho lực lượng lao động đã được đào tạo hoặc chuyển đổi mô hình hoạt động để khai thác lợi thế đất đai. Vẫn còn trường hợp nhà đầu tư chiến lược tham gia mua cổ phần của DNNN chỉ nhằm mục đích chính là bất động sản và những khu đất vàng của DN (hơn là nhằm vào thương hiệu hoặc ngành kinh doanh chính của DN). Khi đã nắm được DN là tìm cách chuyển nhượng đất, chuyển mục đích sử dụng đất để kinh doanh kiếm lời, không tập trung vào đầu tư phát triển DN theo hoạt động sản xuất kinh doanh chính. Quản lý vốn tại các DN có phần vốn nhà nước không chi phối khó khăn, đặc biệt là tại các DN kinh doanh thua lỗ, thuộc diện giám sát tài chính hoặc có cổ đông lớn thiếu hợp tác.
Bên cạnh đó, công tác đăng ký giao dịch, niêm yết trên thị trường chứng khoán sau cổ phần hóa của công ty cổ phần gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu công khai, minh bạch của quá trình hậu cổ phần hóa. Đồng thời, hạn chế công tác giám sát của toàn xã hội đối với hoạt động của các DN này. Công tác quyết toán cổ phần hóa chưa được thực hiện nghiêm túc tại một số DN cổ phần hóa dẫn đến khó khăn trong quá trình hoạt động của công ty cổ phần, ảnh hưởng đến quá trình thoái vốn tại DN.
Kiến nghị 7 nhóm giải pháp
Việc nhìn nhận, đánh giá những vấn đề còn tồn tại trong công tác cổ phần hóa, thoái vốn DNNN thời gian qua là hết sức cần thiết để từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp phù hợp để tiếp tục tiến trình cải cách, đổi mới khu vực DNNN.
Theo chúng tôi, thời gian tới, nhằm tiếp tục đẩy mạnh tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn DNNN, đảm bảo an toàn vốn, đất đai công sản cho nhà nước, cần chú trọng các nhóm giải pháp sau:
Một là, cần thay đổi nhận thức, quan điểm về chủ trương cổ phần hóa, thoái vốn DNNN. Trong đó, tiếp tục thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn Nhà nước tại các DN kinh doanh thuần túy; chỉ giữ lại các DN theo đúng tiêu chí phân loại nêu tại Điều 3 của Quyết định này. Đối với các DN không đáp ứng tiêu chí thì kiên quyết cổ phần hóa, thoái vốn, Nhà nước không nắm giữ cổ phần, vốn góp. Kiên quyết thực hiện thoái vốn ở những DN mà tỷ lệ vốn nhà nước đang nắm ở mức thấp (dưới 36% ở các DNNN nhỏ) do tỷ lệ này không có nhiều ý nghĩa trong quản trị DN. Đồng thời, không cổ phần hóa, thoái vốn bằng mọi giá mà cần theo nguyên tắc và tín hiệu thị trường, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, hiệu quả và thu hồi tối đa vốn Nhà nước.
Hai là, tập trung rà soát, sửa đổi bổ sung hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật liên quan. Trong đó, đẩy nhanh việc rà soát, sửa đổi các quy định tại Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Đất đai… và các văn bản pháp luật khác có liên quan để khắc phục vướng mắc, khó khăn phát sinh trong cơ cấu lại DNNN, đầu tư, quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp để đáp ứng tốt hơn các yêu cầu thực tiễn.
Ba là, nghiên cứu đổi mới các quy định xác định giá trị quyền sử dụng đất bám sát tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành TW Đảng khóa XIII; quy định việc không tính giá trị đất vào giá trị doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn:
DNNN trước cổ phần hóa phải chuyển sang thuê đất trả tiền hàng năm và sau cổ phần hóa phải cam kết thực hiện đúng mục đích sử dụng đất cho sản xuất kinh doanh, giữ nguyên hình thức thuê đất trả tiền hàng năm. Việc chuyển mục đích sử dụng đất, doanh nghiệp sau cổ phần hóa phải tuân thủ quy hoạch, bảo đảm điều kiện, trình tự, thủ tục đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định. Kiên quyết thu hồi đất theo quy định của pháp luật đối với các trường hợp vi phạm.
Việc xử lý nhà đất đối với doanh nghiệp quản lý nhiều đất đai ở vị trí có lợi thế thương mại thực hiện theo quy định sắp xếp cơ sở nhà đất của Luật quản lý sử dụng tài sản công, không phân biệt doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hay doanh nghiệp sau cổ phần hóa.
Về xác định giá đất theo quy định của Luật Ðất đai năm 2013 đồng bộ với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa quy định rõ cơ chế, phương pháp xác định giá đất, cơ quan chịu trách nhiệm xác định, quyết định, giám sát, kiểm tra, nâng cao chất lượng công tác định giá đất, tính độc lập của Hội đồng thẩm định giá đất, tổ chức tư vấn xác định giá đất đảm bảo công khai minh bạch.
Bổ sung những chế định đấu giá quyền sử dụng đất và quyền thuê đất vào Luật Đấu thầu, đảm bảo tính công khai, minh bạch và thông tin đầy đủ về đất (diện tích, vị trí, giá thuê, phương thức trả tiền…).
Bốn là, nghiên cứu đổi mới việc xác định giá trị doanh nghiệp theo hướng giao tổ chức tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp theo theo quy định của pháp luật giá và thẩm định giá. Hoặc nghiên cứu lựa chọn các tổ chức tài chính nước ngoài tham gia xác định giá trị DN, tổ chức các hội nghị ở trong và ngoài nước để thu hút các nhà đầu tư chiến lược cho DN, xây dựng tiêu chí lựa chọn cổ đông chiến lược có tiềm lực tài chính, kỹ thuật, cam kết gắn bó với DN để giữ được thương hiệu, bản sắc của DN...
Năm là, nghiên cứu luật hóa các quy trình thủ tục và những nguyên tắc cơ bản của các hình thức sắp xếp, đổi mới DNNN; nghiên cứu, tổng kết đánh giá việc thực hiện Thông tư số 21/2019/TT-BTC ngày 11/4/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc bán cổ phần lần đầu và chuyển nhượng vốn nhà nước theo phương pháp dựng sổ để đánh giá được sự ý nghĩa, sự cần thiết và khả năng áp dụng trong thực tiễn của phương pháp này.
Cần xây dựng cơ chế riêng khi bán cổ phần lần đầu (IPO) hoặc thoái vốn đối với các DN quy mô lớn (ví dụ có vốn nhà nước trên sổ sách kế toán đạt mức trên 1.800 tỷ đồng như: Tổng công ty MobiFone, Ngân hàng Nông nghiệp Phát triển nông thôn (Agribank)... để đạt được mục tiêu hiệu quả và thu hồi cao nhất vốn đầu tư của Nhà nước. Trong đó, cần lựa chọn phương pháp xác định giá trị cho phù hợp (như phương pháp dựng sổ, tài sản, dòng tiền chiết khấu...),
Sáu là, quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu (Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Người đại diện phần vốn nhà nước), gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả sắp xếp, đổi mới DNNN khi đánh giá, xếp loại người đứng đầu hoặc xếp loại DN. Đồng thời, củng cố mô hình cơ quan đại diện chủ sở hữu để tăng cường giám sát, kiểm tra việc thực hiện đổi mới, sắp xếp DNNN, trong đó tập trung kiểm tra, giám sát người đứng đầu, người quản lý DNNN ở những nơi xảy ra vi phạm, đặc biệt là các nội dung liên quan đến sử dụng đất của DN sau cổ phần hóa, thoái vốn, bảo đảm tuân thủ phương án sử dụng đất đã được phê duyệt và các quy định của pháp luật về quản lý đất đai.
Bảy là tập trung nhóm các giải pháp về thanh tra, kiểm tra đối với các DN thoái vốn: tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra hoạt động của DNNN, kiểm soát quyền lực, kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, phòng chống tiêu cực, tham nhũng từ hoạt động thoái vốn...
Cần thanh kiểm tra kịp thời các trường hợp thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo đúng thẩm quyền. Qua công tác thanh tra, kiểm tra, các cơ quan phải kịp thời ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm trong thoái vốn nhà nước, giúp đảm bảo lợi ích của nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp và người lao động. Với giá trị nguồn vốn đặc biệt lớn của nhà nước tại các doanh nghiệp, hoạt động thoái vốn nhà nước có tác động không chỉ tới nguồn thu của ngân sách nhà nước mà còn tác động tới doanh nghiệp. Hành vi vi phạm trong thoái vốn nhà nước vừa gây hậu quả thất thoát vốn nhà nước, ảnh hưởng tới mục tiêu kinh tế - xã hội trong thoái vốn nhà nước, đồng thời gây cho doanh nghiệp những khó khăn, tổn thất. Do vậy, trong công tác thanh tra cần phát hiện kịp thời các vấn đề của doanh nghiệp trong việc thực hiện thoái vốn nhà nước. Những hành vi vi phạm cần được phát hiện và ngăn chặn kịp thời để những hậu quả nghiêm trọng không xảy ra.
Công tác thanh tra cần đánh giá và phát hiện những sơ hở trong cơ chế, chính sách khi thực hiện thoái vốn nhà nước để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi kịp thời. Các cơ quan thanh tra, qua quá trình thanh tra phát hiện những sơ hở trong quy định của pháp luật và kịp thời kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện sẽ giúp cho việc quản lý vốn nhà nước, thực hiện thoái vốn nhà nước được thực hiện có hiệu quả, hạn chế được những hành vi lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi.
Những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách về thoái vốn nhà nếu được phát hiện và kiến nghị hoàn thiện kịp thời qua công tác thanh tra, kiểm tra thì sẽ giúp cho công tác thoái vốn được thực hiện có hiệu quả, ngăn chặn những hành vi trục lợi nảy nở.
Lê Phúc – Đăng Công – Trần Dương ( T/h)