Hai vấn đề lớn trong dự thảo Luật Dầu khí (sửa đổi) cần tiếp tục nghiên cứu kĩ

(Pháp lý) – Nghiên cứu sửa đổi Luật Dầu khí là hết sức cần thiết, nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong quản lý nhà nước, loại bỏ rào cản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho nhà đầu tư, góp phần cải thiện mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực dầu khí. Đặc biệt hợp đồng dầu khí là thoả thuận pháp lý quan trọng, do đó cần cân nhắc kĩ về thẩm quyền phê duyệt .

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật Dầu khí (sửa đổi)

Tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật Dầu khí (sửa đổi). Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã chủ trì, phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu tiếp thu, giải trình, chỉnh lý dự thảo Luật.

Dự thảo Luật tập trung sửa đổi 6 nhóm chính sách quan trọng

Thứ nhất, chính sách về bổ sung và hoàn thiện các quy định liên quan đến hợp đồng dầu khí.

Thứ hai, chính sách quy định về điều tra cơ bản và dầu khí và trình tự, phê duyệt các bước triển khai hoạt động dầu khí, dự án dầu khí gồm các giai đoạn tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí.

Thứ ba, Chính sách quy định khung cho việc thực hiện dự án dầu khí theo chuỗi từ tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, xử lý.

Thứ tư, Chính sách về ưu đãi đầu tư và ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với dự án dầu khí theo lô dầu khí thông qua hợp đồng dầu khí.

Thứ năm, chính sách quy định về công tác kế toán, kiểm toán, quyết toán và xử lý chi phí trong hoạt động dầu khí.

Thứ sáu, chính sách quy định khung việc cho phép bên thứ ba tiếp cận các cơ sở hạ tầng có sẵn của ngành dầu khí và nghĩa vụ chia sẻ công trình dầu khí, cơ sở hạ tầng sẵn có nhằm sử dụng tối ưu, hiệu quả hệ thống hạ tầng cơ sở sẵn có, tránh lãng phí trong đầu tư.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh.

Hợp đồng dầu khí là thoả thuận pháp lý quan trọng: Cần cân nhắc kĩ về thẩm quyền phê duyệt 

Một trong những vấn đề còn ý kiến khác nhau mà Dự thảo cần nghiên cứu sửa đổi đó chính là quy định về thẩm quyền phê duyệt hợp đồng dầu khí. Theo đó, hiện vấn đề này đang có hai loại ý kiến khác nhau. 

Cụ thể, loại ý kiến thứ nhất cho rằng, trong bối cảnh hiện nay thực hiện hoạt động dầu khí ngày càng hội nhập và đã có nhiều thay đổi so với thời điểm ban hành Luật Dầu khí năm 1993, do đó, cần có cơ chế mới về phê duyệt hợp đồng dầu khí bảo đảm tính chủ động cũng như nâng cao vai trò, trách nhiệm của Bộ Công Thương và PVN trong quá trình triển khai thực hiện.

Tuy nhiên, việc giao PVN phê duyệt hợp đồng dầu khí không bảo đảm khách quan trong trường hợp PVN tham gia với tư cách nhà thầu độc lập ký kết hợp đồng dầu khí. Vì vậy, đề nghị tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội theo hướng, quy định Thủ tướng Chính phủ chỉ phê duyệt nội dung chính của hợp đồng dầu khí; giao Bộ Công Thương phê duyệt nội dung hợp đồng dầu khí, trên cơ sở đó, PVN ký kết và quản lý hợp đồng dầu khí (Phương án 1 khoản 1 Điều 24 dự thảo Luật). Đồng thời, bỏ quy định về Chính phủ ban hành hợp đồng dầu khí mẫu để bảo đảm sự thống nhất về chính sách.

Loại ý kiến thứ hai cho rằng hợp đồng dầu khí là thoả thuận pháp lý quan trọng giữa Nhà nước và nhà thầu ký kết hợp đồng dầu khí, ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia tìm kiếm thăm dò, khai thác tài nguyên dầu khí quốc gia, có tính chất dài hạn với nhiều nội dung đặc thù có liên quan đến quốc phòng, an ninh, chủ quyền, mặt biển...

Vì vậy, cần thiết quy định Thủ tướng Chính phủ phê duyệt toàn bộ nội dung hợp đồng dầu khí. Ngoài ra, dự thảo Luật đã được thiết kế theo tinh thần phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, Thủ tướng Chính phủ chỉ quyết định một số nội dung quan trọng như: phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu ký kết hợp đồng dầu khí, nội dung hợp đồng dầu khí…; các nội dung khác giao Bộ Công Thương và PVN thực hiện. Đề nghị tiếp thu ý kiến ĐBQH theo hướng giữ quy định như dự thảo Luật Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 3 (Phương án 2 khoản 1 Điều 24 dự thảo Luật).

Hai luồng ý kiến về thẩm quyền phê duyệt hợp đồng dầu khí ảnh 1

Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu tại phiên họp

Băn khoăn về nội dung này, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đề nghị nghiên cứu thêm để thiết kế phương án phù hợp. Bởi, theo phương án 1 thì có bất cập là chưa rành mạch thẩm quyền, chưa rõ trách nhiệm.

Theo Chủ tịch Quốc hội, hợp đồng rất quan trọng, ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ, có tính chất dài hạn hàng chục năm, quá trình đó có thể có tranh chấp, rủi ro, quy định thành 2 bước phê duyệt thì sau này ai chịu trách nhiệm? Một việc chỉ nên giao một người.

Chủ tịch Quốc hội cũng cho rằng nên chăng Thủ tướng phê duyệt toàn bộ nội dung hợp đồng, còn phân cấp thì luật quy định nguyên tắc cơ bản để Bộ Công Thương chịu trách nhiệm.

Phát biểu tại phiên họp, một số đại biểu cũng cho rằng, trong hoạt động dầu khí, hợp đồng dầu khí là quan trọng nhất, hợp đồng dầu khí là thoả thuận ràng buộc pháp lý giữa Nhà nước và nhà thầu dầu khí, có thời hạn rất dài, nhiều nội dung đặc thù liên quan đến quốc phòng, an ninh, chủ quyền, mặt biển... quy định thẩm quyền của Thủ tướng phê duyệt toàn bộ nội dung hợp đồng dầu khí là phù hợp thực tiễn hoạt động dầu khí tại Việt Nam.

Cần qui định chặt chẽ về cơ chế tài chính đối với mỏ khai thác tận thu

Về cơ chế tài chính “chênh lệch giữa doanh thu và chi phí thực hiện khai thác tài nguyên đối với mỏ dầu khí khai thác tận thu nộp vào ngân sách nhà nước”, hiện cũng đang có 2 loại ý kiến:

Loại ý kiến thứ nhất, việc thực hiện chính sách này đã ràng buộc nguyên tắc kiểm soát chặt chẽ chi phí; dự thảo Luật đã quy định trách nhiệm của Bộ Công Thương nghiên cứu xây dựng, ban hành, hướng dẫn về định mức chi phí, định mức kinh tế, kỹ thuật cho điều tra cơ bản về dầu khí và hoạt động dầu khí; các chi phí đều được kiểm toán theo quy định.

Vì vậy, không cần quy định về việc tách riêng khoản thuế tài nguyên và thuế xuất khẩu dầu khí nộp về ngân sách nhà nước trước khi thực hiện thu nộp ngân sách nhà nước khoản chênh lệch giữa doanh thu và chi phí thực hiện hoạt động này. Hơn nữa, quy định như vậy mới tạo cơ chế đột phá mang tính khả thi để khai thác tận thu tài nguyên dầu khí (chênh lệch doanh thu và chi phí thực dương) đối với cả 2 loại đối tượng mỏ như đã nêu, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, kể cả trong trường hợp doanh thu trừ chi phí thấp hơn thuế tài nguyên phải nộp (thay vì kết thúc sớm dự khai thác tận thu).

Loại ý kiến thứ 2, để bảo đảm chắc chắn hằng năm ngân sách nhà nước có thể dự toán và thu được khoản thu nhất định từ khai thác tài nguyên đối với mỏ khai thác tận thu dầu khí, đề nghị việc thực hiện chính sách chênh lệch giữa doanh thu và chi phí được nộp vào ngân sách nhà nước sau khi đã thực hiện nghĩa vụ thuế tài nguyên (theo quy định của pháp luật về thuế tài nguyên) và thuế xuất khẩu dầu khí (theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, có thể điều chỉnh về mức thuế suất 0%). Thực tế đã triển khai thu thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu dầu khí đối với mỏ tận thu Sông Đốc từ năm 2017 đến nay. (Phương án 2 khoản 1 Điều 54 dự thảo Luật).

Thường trực Ủy ban Kinh tế thống nhất với loại ý kiến thứ nhất. Để bảo đảm thống nhất và có thể áp dụng chính sách này ngay sau khi Luật Dầu khí (sửa đổi) có hiệu lực, đề nghị sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 3 Luật Thuế tài nguyên theo hướng loại trừ trường hợp khai thác tài nguyên đối với mỏ khai thác dầu khí tận thu theo quy định của pháp luật về dầu khí (Phương án 1 Điều 66 dự thảo Luật)…

Phát biểu kết luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đề nghị các cơ quan hữu quan chủ trì xây dựng, thẩm tra dự án Luật tiếp thu ý kiến của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp, nhất là các ý kiến đóng góp về tính chất đặc biệt, đặc thù của hoạt động dầu khí để bổ sung, hoàn thiện dự án luật, tiếp tục đưa dự án Luật ra xem xét tại Hội nghị đại biểu Quốc hội chuyên trách cũng như xin ý kiến các đoàn đại biểu Quốc hội trước khi được trình Quốc hội xem xét, quyết định.

 Văn Chiến

Link nội dung: https://phaply.net.vn/hai-van-de-lon-trong-du-thao-luat-dau-khi-sua-doi-can-tiep-tuc-nghien-cuu-ki-a255817.html