Luật Cạnh tranh thúc đẩy việc duy trì cạnh tranh trong EU thông qua các quy định về hành vi phản cạnh tranh của các chủ thể có liên quan để bảo đảm rằng họ không tạo ra các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có khả năng ảnh hưởng đến thương mại và gây thiệt hại đến lợi ích của xã hội giữa các nước thành viên EU.
Với một lịch sử có từ thời có các quy định cấm các hạn chế thương mại và chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm của Đạo luật Sherman năm 1890 và Đạo luật Clayton năm 1914 của Hoa Kỳ, pháp luật cạnh tranh châu Âu ngày nay có nguồn gốc chủ yếu từ Điều 101 đến 109 của Hiệp ước về các chức năng của EU. Trong đó Điều 101 quy định cấm đối với các hành vi thoả thuận gây hạn chế cạnh tranh và Điều 102 quy định cấm đối với các hành vi lạm dụng sức mạnh thống lĩnh thị trường.
Việc thực thi của EC được tiến hành thông qua các hoạt động điều tra, xử lý đối với các chủ thể vi phạm, tức có các hành vi phản cạnh tranh như thoả thuận hạn chế cạnh tranh hay lạm dụng sức mạnh thống lĩnh thị trường. Để làm được điều này, EC phải có những thẩm quyền nhất định trong quá trình điều tra.
Theo quy định tại Quy chế số 1/2003 ngày 16 tháng 12 năm 2002 của Hội đồng Châu Âu nhằm thực thi các điều khoản về cạnh tranh trong Hiệp ước hoạt động của EU, EC có thẩm quyền tiến hành điều tra (Điều 17) và cùng với đó là quyền yêu cầu cung cấp thông tin (Điều 18), quyền thực hiện thẩm vấn lấy lời khai (Điều 19) và quyền thực hiện khám xét (Điều 20).
Bên cạnh đó, các quy tắc cạnh tranh của EU cũng yêu cầu chính phủ các quốc gia thành viên không được đặt ra hoặc duy trì các biện pháp nhằm hạn chế một trong ba nguyên tắc tự do cơ bản của liên minh: tự do lưu thông hàng hóa, tự do di chuyển và tự do cung cấp dịch vụ. Theo các chính sách này, các quy tắc được áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động ở thị trường châu Âu mà không quan tâm đến hình thức sở hữu của chúng.
Theo đó, các doanh nghiệp Việt Nam có tham gia vào các hoạt động kinh doanh, hợp tác đầu tư tại Eu sẽ thuộc đối tượng điều chỉnh của các quy định này. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải lưu ý một số vấn đề sau:
1. Về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (cartel)
Điều 81 Hiệp định Rome và Điều 101 Hiệp ước TFEU quy định ngăn cấm thỏa thuận mà chúng tác động hoặc có chủ ý ngăn chặn, hạn chế hoặc làm sai lệnh cạnh tranh, theo đó “nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, mọi quyết định liên kết doanh nghiệp và mọi dạng thỏa thuận có khả năng ảnh hưởng đến thương mại giữa các nước thành viên và có mục đích hoặc hậu quả làm ngăn cản, hạn chế và sai lệch quy luật cạnh tranh trên thị trường chung”.
Quy định này áp dụng đối với các thỏa thuận theo cả chiều ngang được ký kết giữa các công ty hoạt động ở cùng cấp độ thương mại, ví dụ giữa hai nhà sản xuất hoặc hai nhà phân phối và chiều dọc được ký kết giữa hai hoặc nhiều công ty hoạt động ở các cấp độ khác nhau của chuỗi sản xuất và phân phối, chẳng hạn như thỏa thuận giữa nhà cung cấp và nhà phân phối hoặc nhà phân phối và khách hàng, trên cùng một thị trường liên quan.
Liên quan đến lĩnh vực này, EC có thẩm quyền rất lớn trong việc tiến hành điều tra, bao gồm việc khám xét trụ sở của các doanh nghiệp mà không cần báo trước để xem xét các tài liệu nội bộ của doanh nghiệp, đồng thời có thẩm quyền truy cứu bất cứ doanh nghiệp nào vi phạm pháp luật và áp dụng chế tài xử lý phạt tiền lên đến mức 10% tổng doanh thu của doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải đặc biệt chú ý để không vi phạm 04 dạng hành vi được đánh giá là đặc biệt nghiêm trọng trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam nói riêng và các quy tắc cạnh tranh của EU cũng như các nước trên thế giới nói chung, đó là các thỏa thuận theo chiều ngang (hardcode cartel):
+ Thỏa thuận ấn định giá;
+ Thỏa thuận phân chia thị trường;
+ Thỏa thuận kiểm soát khối lượng hàng hóa, dịch vụ;
+ Thông thầu.
Các doanh nghiệp Việt Nam, các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu hàng hóa vào Châu Âu cần phải đặc biệt chú ý không vi phạm các dạng hành vi thỏa thuận này (Ví dụ: Ngày 11 tháng 3 năm 2015: Cơ quan cạnh tranh Pháp đã xử phạt một số nhà sản xuất các sản phẩm sữa với hành vi cartel với số tiền 192,7 triệu EUR).
2. Về cơ chế miễn trừ
Bên cạnh đó, chính sách cạnh tranh của EU cũng đã quy định về cơ chế miễn trừ. Theo đó, một thỏa thuận bị cấm nhưng có thể được cho phép thực hiện nếu thỏa thuận đó có những tác động tích cực đến thị trường chung như làm tăng khả năng sản xuất hoặc phân phối, hay thúc đẩy kỹ thuật và cho phép người tiêu dùng được phân chia lợi ích một cách bình đẳng, chỉ những trường hợp bắt buộc hạn chế như vậy sẽ đạt được mục tiêu và không cho phép loại bỏ cạnh tranh cho một phần chủ yếu của sản xuất. Bất cứ một thỏa thuận nào mà hội tụ đủ các điều kiện sẽ được miễn trừ, được áp dụng theo quan hệ dọc, gồm: loại trừ phân phối, loại trừ mua, loại trừ quyền cấp kinh doanh.
Cần lưu ý, đối với các quốc gia trong Eu sẽ có thêm một số miễn trừ đối với ngành nghề đặc thù:
Ví dụ, Đạo luật chống hạn chế cạnh tranh của Đức cũng quy định các thỏa thuận trong một số ngành nghề, lĩnh vực đặc thù nhất định được loại trừ khỏi các điều cấm:
* Lĩnh vực nông nghiệp:
+ Thỏa thuận giữa các nhà sản xuất nông nghiệp hoặc cho các thỏa thuận và nghị quyết của những hiệp hội các nhà sản xuất nông nghiệp và các liên hiệp có liên quan đến: (1)Việc sản xuất hoặc kinh doanh các mặt hàng nông sản, hoặc (2)Việc sử dụng các cơ sở kết hợp dành cho việc lưu trữ, xử lý hoặc chế biến nông sản. Với điều kiện là các thỏa thuận này không ấn định các mức giá bán lại và không loại trừ sự cạnh tranh. Các doanh nghiệp gây giống cây trồng và vật nuôi cũng như các doanh nghiệp hoạt động trong cùng một cấp độ kinh doanh cũng được xem là các nhà sản xuất nông nghiệp;
+ Thỏa thuận ấn định giá bán lại theo chiều dọc liên quan đến việc phân loại, gắn nhãn hoặc đóng gói nông sản.
* Lĩnh vực truyền thông:
+ Thỏa thuận ấn định giá bán lại theo chiều dọc bởi một doanh nghiệp phát hành báo hoặc tạp chí có yêu cầu những người mua các ấn phẩm này,
+ Thỏa thuận công nghiệp được ký kết giữa các hiệp hội ấn định giá bán lại cho báo và tạp chí (các nhà xuất bản) một mặt theo quy định trên, và các đối tượng khác theo quy định tại Khoản 2a Điều 30.
* Các hợp đồng trong lĩnh vực quản lý nước
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo các hợp đồng đã có hiệu lực giữa các công ty cấp nước và các đối tượng
+ Các công ty cấp nước khác hoặc cơ quan chính quyền vùng hoặc địa phương;
+ Các cơ quan vùng hoặc địa phương;
+ Nhà cung cấp nước ở mức độ thực hiện phân phối;
+ Các nhà cũng cấp nước khác.
3. Về chương trình khoan hồng
Đối với các chủ thể đã thực hiện hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, pháp luật cạnh tranh EU xây dựng chương trình khoan hồng cho phép miễn trừ toàn bộ hoặc một phần tiền phạt đối với các doanh nghiệp vi phạm khi họ đạt đủ các điều kiện được hưởng khoan hồng. Chính sách khoan hồng của EU quy định hai mức khoan hồng gồm khoan hồng toàn phần hay còn được gọi là miễn trừ và khoan hồng từng phần hay còn gọi là giảm mức xử phạt.
Chương trình khoan hồng toàn phần (miễn trừ)
a. Điều kiện về thời điểm trình báo
Doanh nghiệp tham gia chương trình khoan hồng có thể được miễn toàn bộ các hình phạt nếu đáp ứng điều kiện: (i) Là doanh nghiệp đầu tiên đến trình báo cho Cơ quan cạnh tranh để cung cấp thông tin và chứng cứ cho phép Cơ quan cạnh tranh có cơ sở tiến hành điều tra vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vốn đã tình nghi; (ii) Hoặc là đối tượng đầu tiên trình báo, cung cấp thông tin và chứng cứ cho phép Cơ quan cạnh tranh có đủ cơ sở ban hành quyết định điều tra, xử lý các hành vi vi phạm Điều 101 của TFEU.
b. Yêu cầu đối với nội dung trình báo
Theo quy định của chính sách khoan hồng của EU, chỉ duy nhất một doanh nghiệp có khả năng được hưởng miễn trừ. Đối với nội dung trình báo, doanh nghiệp xin hưởng khoan hồng phải cung cấp cho Cơ quan cạnh tranh những thông tin, chứng cứ liên quan đến hành vi vi phạm. Việc khai báo có thể được thực hiện bằng văn bản hoặc bằng miệng bởi người đại diện doanh nghiệp. Nội dung khai báo bao gồm: (i) Miêu tả chi tiết về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh; (ii) Thông tin liên hệ của doanh nghiệp và những thành viên khác tham gia thỏa thuận; (iii) Tên, chức vụ và địa chỉ các cá nhân liên quan đến thỏa thuận; (iv) Thông tin về những cơ quan quản lý nhà nước khác đã từng tiếp cận (hoặc có ý định tiếp cận) với các bên liên quan đến thỏa thuận.
c. Các điều kiện sau khi đề nghị xin hưởng khoan hồng
Sau khi đã đề nghị hưởng khoan hồng, doanh nghiệp tiếp tục phải đáp ứng được những điều kiện sau: (i) Hợp tác liên tục, chặt chẽ và kịp thời với Cơ quan cạnh tranh trong quá trình điều tra về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã khai báo; (ii) Dừng tham gia thỏa thuận kể từ thời điểm khai báo (trừ trường hợp vẫn tiếp tục do yêu cầu của Cơ quan cạnh tranh); (iii) Không tiêu hủy, giả mạo, che dấu thông tin, chứng cứ về thỏa thuận hoặc tiết lộ về việc mình đang tham gia chính sách khoan hồng (trừ trường hợp với các Cơ quan cạnh tranh khác); (iv) Không phải là đối tượng lôi kéo, ép buộc bên khác tham gia vào thỏa thuận.
(i) Giảm phạt (khoan hồng từng phần)
Tuy không đáp ứng đủ điều kiện để được hưởng khoan hồng ở mức miễn hoàn toàn nhưng nếu doanh nghiệp cung cấp cho Cơ quan cạnh tranh những chứng cứ có giá trị gia tăng so với chứng cứ mà Ủy ban sẵn có đồng thời chấm dứt hành vi vi phạm tại thời điểm có hồ sơ thông báo xin hưởng khoan hồng, doanh nghiệp vẫn có thể được hưởng theo chính sách khoan hồng từng phần với 3 mức, cụ thể:
- Giảm 30% đến 50% tiền phạt đối với doanh nghiệp xin hưởng khoan hồng thứ hai tính theo thứ tự thời gian
- Giảm 20% đến 30% tiền phạt đối với doanh nghiệp xin hưởng khoan hồng thứ ba tính theo thứ tự thời gian;
- Giảm từ 0 đến 20% tiền phạt đối với doanh nghiệp xin hưởng khoan hồng tiếp theo tính theo thứ tự thời gian.
(ii) Về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường: Điều 102 TFEU quy định việc ngăn cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và đưa ra một danh sách các hành vi có thể được xem xét là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường: áp đặt (trực tiếp hoặc gián tiếp) giá mua/bán hoặc các điều kiện thương mại không công bằng; hạn chế sản xuất, thị trường hoặc phát triển kỹ thuật gây tổn hại tới người tiêu dùng; phân biệt mà đẩy đối tác thương mại vào thế bất lợi; áp đặt các điều kiện hợp đồng không phù hợp, dẫn đến bất lợi đối với các đối tác khác trên thị trường có thể được xem như là lạm dụng.
Chính sách cạnh tranh của EU không ngăn cấm việc có vị trí thống lĩnh của các doanh nghiệp, chính sách cạnh tranh của EU thể hiện rất rõ quan điểm ngăn cản việc lạm dụng vị trí thống lĩnh như các hành vi bán dưới giá thành làm suy yếu đối thủ, hoặc các thỏa thuận cung cấp và phân phối độc quyền để loại bỏ đối thủ cạnh tranh…
Mặc dù là nội dung quan trọng nhưng pháp luật cạnh tranh EU không đưa ra định nghĩa thế nào là “vị trí thống lĩnh”, mà chủ yếu đánh giá liệu một doanh nghiệp có giữ vị trí thống lĩnh thị trường hay không bằng cách xác định đặc trưng của việc nắm giữ sức mạnh thị trường, thông qua việc đồng thời đánh giá nhiều tiêu chí.
Để xác định điểm đặc trưng của việc nắm giữ vị trí thống lĩnh thị trường, các quốc gia trên thế giới sử dụng đồng thời hai cách tiếp cận (không đối lập nhau, mà bổ sung cho nhau), gồm:
Cách tiếp cận mang tính học thuyết: đặc trưng của doanh nghiệp chiếm vị trí thống lĩnh là có khả năng thoát khỏi cạnh tranh thực chất, không chịu sự ràng buộc của thị trường và đóng vai trò chủ đạo trên thị trường đó. Thay vì phải tuân thủ theo quy luật của thị trường, doanh nghiệp thống lĩnh “tự làm luật” trên thị trường đó. Trong các bản án United Brand (1978) và Hoffman-la-Roche (1979), Tòa án Công lý của EU cho rằng đặc trưng của doanh nghiệp thống lĩnh là khả năng hành động độc lập cho phép doanh nghiệp “không cần tính đến - trong một chừng mực có thể đánh giá được - các đối thủ cạnh tranh, người mua hoặc người cung cấp hoặc gây ảnh hưởng đáng kể” đến các điều kiện cạnh tranh trên thị trường.
Cách tiếp cận thực tiễn: cho rằng nếu doanh nghiệp nào có hành vi lạm dụng thì doanh nghiệp đó có vị trí thống lĩnh. Triết lý cơ sở của quan điểm này là: chủ thể lạm dụng không hẳn là muốn lạm dụng, nhưng chủ thể lạm dụng chắc chắn phải là đối tượng có sức mạnh thị trường để gây ra hành vi lạm dụng.
Tại EU, việc xác định liệu một hay nhiều doanh nghiệp nào đấy có giữ vị trí thống lĩnh thị trường hay không luôn cũng như việc đánh giá sức mạnh thị trường của một hay nhiều doanh nghiệp được tiến hành căn cứ theo nhiều tiêu chí khác nhau, chủ yếu gồm các tiêu chí sau:
(1) Thị phần của doanh nghiệp: Trong vụ việc AKZO (1991), Tòa án Công lý của EU đã từng ra quyết định “trừ trường hợp đặc biệt, bản thân việc nắm giữ một thị phần đặc biệt lớn đã là bằng chứng về sự tồn tại của một vị trí thống lĩnh”. Tuy nhiên, EC cũng cho rằng một mình tiêu chí thị phần chưa đủ để xác định vị trí thỗng lĩnh, nhìn chung, đây chỉ là một ngưỡng giả định làm căn cứ suy đoán.
(2) Sự mất cân đối giữa các lực lượng trên thị trường: theo Hội đồng cạnh tranh Pháp và Tổng cục Cạnh tranh, tiêu dùng và chống gian lận thương mại Pháp trong vụ việc công ty NMPP năm 1987 quy mô của các doanh nghiệp, doanh nghiệp có hay không trực thuộc vào một tập đoàn, khả năng tài chính, sự yếu kém tương đối của các đối thủ cạnh tranh v.v… cũng có thể là một trong các tiêu chí giúp xác định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp.
Việc một doanh nghiệp có thị phần lớn nhưng lại bị mất dần thị phần có thể là biểu hiện cho thấy doanh nghiệp đó phải chịu áp lực cạnh tranh, và do đó không còn chiếm vị trí thống lĩnh nữa. Tuy nhiên trong một số trường hợp, “khi một doanh nghiệp đang chiếm vị trí độc quyền chuyển sang một hoàn cảnh mới trong đó sự cạnh tranh ngày càng được thể hiện mạnh mẽ thì việc doanh nghiệp đó điều chỉnh giá của mình theo giá thị trường không phải là căn cứ mặc định để kết luận rằng doanh nghiệp đã mất khả năng tuân theo quy luật cạnh tranh và vị trí thống lĩnh” (Quyết định số 2001-D-23 của Hội đồng cạnh tranh Pháp về một số hành vi của Công ty Abbott trên thị trường sản phẩm y tế gây tê).
(3) Việc nắm giữ một số lợi thế như sức mạnh tài chính, kỹ thuật công nghệ, hạ tầng cơ sở, hiệu quả quản lý, uy tín của nhãn hiệu, sự năng động trong kinh doanh, …: Vào năm 1994, Tòa án Phúc thẩm Versailles, Pháp từng kết luận Công ty FR3 chiếm vị trí thống lĩnh trên thị trường cung cấp dịch vụ sản xuất sản phẩm nghe nhìn mặc dù thị phần của họ chỉ là 7,3%. Bởi vì: FR3 chủ yếu thu nhập từ khoản tiền phí xem truyền hình mà các đối thủ cạnh tranh tư nhân không thể có; và doanh thu của FR3 lớn gấp hai lần so với doanh thu của nhiều đối thủ cạnh tranh.
Những yếu tố bên ngoài có khả năng cho phép doanh nghiệp tránh được sự cạnh tranh thực chất. Đó có thể được coi là một khuôn khổ pháp lý tạo ra độc quyền hay những rào cản đối với việc gia nhập thị trường, như chi phí quảng cáo hay định mức đầu tư ban đầu để tham gia thị trường quá lớn v.v… Mức độ phát triển của thị trường cũng là một yếu tố cần phải tính tới. EC cho rằng trên một thị trường mới hình thành, việc nắm giữ một thị phần lớn sẽ đóng vai trò ít quan trọng hơn trong việc đánh giá sức mạnh thị trường và vị trí thống lĩnh.
Trong tất cả các tiêu chí trên, quan điểm của các cơ quan cạnh tranh EU là không có tiêu chí nào có thể cho phép khẳng định doanh nghiệp có sức mạnh thị trường hay chiếm vị trí thống lĩnh thị trường hay không, nhưng nếu nhiều tiêu chí, nhiều dấu hiệu cùng kết hợp lại thì có thể cho phép khẳng định điều đó.
Một ví dụ điển hình trong vấn đề này là trường hợp của Công ty Microsoft: Với tư cách là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trong lĩnh vực sản xuất phần mềm máy tính, Microsoft đã buộc khách hàng chỉ có thể mua được máy tính nếu chấp nhận mua kèm hệ điều hành Windows của mình. EC đã đệ trình các biện pháp để ngăn cản hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh này như phạt tiền, buộc Microsoft phải “license” công nghệ, hoặc buộc Microsoft phải chia nhỏ doanh nghiệp thông qua việc bán một lượng tài sản nhất định.
Sau cuộc điều tra kéo dài 7 năm của EU nhắm vào công cụ tìm kiếm của Google, Tòa án Brussels đưa ra mức phạt kỷ lục 3,4 tỷ USD đối với hành vi vi phạm luật cạnh tranh của công ty này. EU cáo buộc Google đã không công bằng khi thúc đẩy dịch vụ mua sắm của mình (Google Shopping) trong kết quả hiển thị của Google Search. Điều này gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh tranh trực tiếp với Google Shopping. Năm 2018, Google bị EU phạt 5,15 tỉ USD vì hành vi độc quyền. Tổng cộng Google phải trích ra gần 10 tỉ USD nộp phạt cho EU trong 3 lần: lần đầu là khoản phạt 2,7 tỉ USD năm 2017, rồi đến khoản phạt 5 tỉ năm 2018 và 1,7 tỉ USD năm 2019.
Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU là khá nhỏ. Tuy nhiên, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam cần phải chú ý đối với một số mặt hàng Việt Nam đang chiếm thị phần xuất khẩu cao như: quần áo, giày da, một số loại lương thực, thực phẩm, hoa quả hay mặt hàng nông sản đặc thù của Việt Nam như: hạt điều, cà phê, gạo, vải, nhãn, chanh leo… do rất có thể tại một thị trường ngách, mức thị phần của doanh nghiệp Việt Nam sẽ được đánh giá là có sức mạnh đáng kể.
(iii) Về kiểm soát sáp nhập doanh nghiệp (tập trung kinh tế)
Việc sáp nhập doanh nghiệp có thể mang đến sự ra đời một doanh nghiệp mới có vị trí thống lĩnh. Điều này có thể sẽ làm sai lệch thị trường và không bảo đảm cạnh tranh hiệu quả. Chính vì vậy, hành vi sáp nhập hay hợp nhất doanh nghiệp cũng là đối tượng quan tâm đặc biệt trong chính sách cạnh tranh của EU. Tuy nhiên, hoạt động sáp nhập chỉ bị ngăn cản nếu nó tạo ra hoặc nâng cao vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp và làm ảnh hưởng đến hiệu quả cạnh tranh.
Năm 1990, chính sách cạnh tranh EU đã có bổ sung một số quy định đối với vấn đề sáp nhập. Theo đó, các doanh nghiệp lớn, đặc biệt là các doanh nghiệp có tổng doanh thu trên 5 tỷ EUR chỉ được sáp nhập khi có sự phê chuẩn đồng ý của EC. Thủ tục sáp nhập được diễn ra theo hai bước:
+ Giai đoạn kiểm tra sơ bộ diễn ra trong vòng 01 tháng. Đây là giai đoạn các chuyên gia xem xét và đưa ra quyết định việc sáp nhập có tác động đến cạnh tranh hay không.
Kết quả của giai đoạn này là: (i) doanh nghiệp bị từ chối cho phép sáp nhập, hoặc (ii) được cho phép thực hiện sáp nhập ngay, hoặc (iii) EC phải mở thủ tục xem xét và đánh giá chuyên sâu đối với hoạt động sáp nhập.
4. Về chế tài xử phạt
Những hành vi vi phạm các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, tập trung kinh tế được các nhà làm luật EU đánh giá là các vi phạm đặc biệt nghiêm trọng bởi tính chất làm bóp méo, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Bởi vậy, các chế tài xử phạt dành cho các vi phạm trên rất hà khắc.
EC chỉ tập trung vào xử lý hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp với các hình phạt tiền (có thể lên đến 10% doanh thu trước năm thực hiện hành vi vi phạm đối với các hành vi cartel) và buộc chia tách, bán bớt một phần, ngăn chặn việc sáp nhập (đối với các hành vi tập trung kinh tế). EC chịu trách nhiệm điều tra các vụ thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh, nhưng không có quyền truy tố hình sự. Chỉ cơ quan quản lý cạnh tranh quốc gia mới có quyền áp dụng chế tài hình sự đối với các cá nhân quản lý doanh nghiệp có tham gia vào hành vi phản cạnh tranh.
Một số quốc gia thành viên EU đã đưa vào pháp luật cạnh tranh của mình chế tài hình sự như Áo, Pháp, Đức và Ailen. Tuy nhiên, cơ chế này dẫn đến sự bất cập là EC điều tra các vụ việc cạnh tranh lớn, nhưng không có quyền áp dụng các chế tài hình sự đối với cá nhân trong khi các quốc gia thành viên có quyền áp dụng thì chỉ điều tra các vụ việc nhỏ, mang tính địa phương.
EU là thị trường nhập khẩu lớn thứ 2 thế giới. Hàng năm, EU nhập khẩu khoảng 2.338 tỷ USD. Ngay từ khi thành lập cộng đồng châu Âu, chính sách cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh được coi như một công cụ quan trọng để thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế giữa các nước trong khối. EU cho rằng cạnh tranh hữu hiệu là yếu tố cơ bản kích thích đổi mới, tăng năng suất lao động, qua đó nâng cao mức sống của người dân. Điều này được ghi nhận lần đầu tiên trong Hiệp ước Rome, các quy định về cạnh tranh tiếp tục được quy định và phát triển trong các hiệp ước sau cũng như trong hệ thống pháp luật châu Âu.
Theo tapchicongthuong.vn