Triệu Quốc Q là công an viên xã N huyện S tỉnh B, là người xác minh, thu thập tài liệu, lập hồ sơ qua các cơ quan chức năng thẩm định và chuyển hồ sơ cho tòa án huyện ra quyết định đưa anh Lò văn T 34 tuổi trú tại xã N, huyện S tỉnh B vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Hồ sơ thể hiện Lò Văn T là người nghiện ma túy, có nơi cư trú ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại địa phương do nghiện ma túy và hiện tại T vẫn đang bị nghiện.
Trên cơ sở hồ sơ do Triệu Quốc Q lập, phòng tư pháp, phòng Lao động và Thương binh và xã hội huyện S đã kiểm tra đối chiếu theo quy định. Ngày 06/9/2019, Tòa án nhân dân huyên S đã mở phiên họp để xem xét và ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa anh T vào cơ sở cai nghiên bắt buộc 01 năm.
Thực hiện quyết định trên, ngày 15/01/2020, công an huyên S đã đưa T vào trung tâm cai nghiện bắt buộc tỉnh B. Ngày 20/5/2020, chị Lò Thị Đ (là vợ Lò Văn T) đã có đơn gửi Tòa án nhân dân tỉnh B khiếu nại quyết định của Tòa án huyện S, yêu cầu trả tự do cho anh T, lý do là từ trước đến nay Anh T không nghiện ma túy.
Kết quả xác minh của cơ quan chức năng cho thấy: hồ sơ do Triệu Quốc Q lập để đưa T vào cơ sở cai nghiện là hồ sơ lập khống, giả mạo tài liệu, giấy tờ không đúng trình tự thủ tục, không đúng đối tượng theo quy định của pháp luật. Các tài liệu trong hồ sơ thể hiện anh T đã bị UBND xã N ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, có biên bản của trạm y tế xã N về việc anh T bị dương tính với ma túy và có dấu vân tay điểm chỉ vào các tài liệu có trong hồ sơ đều được làm giả, không đúng sự thật.
Tài liệu xác minh cũng khẳng định anh T không nghiện ma túy và chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã N, không thuộc đối tượng đề nghi áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc. Động cơ, mục đích mà Triệu Quốc Q muốn trong sạch địa bàn, nghi ngờ T nghiện ma túy nên đã lập hồ sơ để đưa T đi cai nghiện bắt buộc.
Ngày 15/8/2019 TAND tỉnh B đã họp và ra quyết định hủy quyết định của TAND huyện S và trả tự do cho anh T. Khi xem xét trách nhiệm của Q và xác định tội danh đối với hành vi của Q, hiện có nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể như sau:
Ý kiến thứ nhất, cho rằng Q phạm tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc theo quy đinh tại Điều 375 BLHS, vì Q là người được phân công xác minh, phát hiện, thiết lập hồ sơ đối với những người nghiện ma túy có đủ điều kiện đi cai nghiện tập trung, nhưng Q đã thêm, bớt, sửa đổi tài liệu, giấy tờ làm sai bản chất, nội dung vụ việc nhằm đưa T là người không nghiện thành người nghiện và có đủ điều kiện đi cai nghiện và thực tế T đã bị đưa đi cai nghiện bắt buộc. Q là người đã lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao đã lập hồ sơ khống, làm sai lệch hoàn toàn bản chất vụ việc từ không nghiện thành nghiện và đã bị đưa đi cai nghiện trái pháp luật.
Ý kiến thứ hai cho rằng, Q đủ yếu tố của tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo Điều 341 BLHS vì hành vi của Q đã xâm phạm trật tự quản lý nhà nước. Q làm giả tất cả tài liệu trong đó có quyết định của UBND xã N, biên bản của trạm y tế xã với nôi dung T dương tính vơi ma túy. Hành vi làm giả tài liệu, con dấu để thực hiện hành vi trái pháp luật, là đưa T đi cai nghiện bắt buộc.
Ý kiến thứ ba cho rằng, hành vi cua Q đã phạm tội Vu khống theo quy định tại Điều 156 BLHS, vì T là người không nghiện, chưa bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã N, nhưng Q đã bịa đặt là T bị nghiện ma túy nên đã lập hồ sơ khống để đưa T đi cai nghiện, hậu quả là T đã bị đi cai nghiện một thời gian tại cơ sơ cai nghiện 7 tháng.
Chúng tôi đồng ý với ý kiến thứ ba, là Q phạm tội Vu khống theo quy định tại Điều 156 BLHS, bởi vì hành vi của Q làm giả vụ việc từ không nghiện thành có nghiện là thay trắng đổi đen, thay đổi hoàn toàn bản chất vụ việc. Hành vi làm sai lệch hồ sơ là trên cơ sở đã có hồ sơ, mà người đó làm sai lệch đi, thêm bớt đi cho nhẹ hoặc nặng thêm, nghĩa là có sự sai lệch. Hành vi của Q cũng có dấu hiệu của
Tội làm giả con dấu, tài liệu, có thể định thêm tội làm giả con dấu tài liệu; Tuy nhiên, việc làm giả con dấu, tài liệu trong vụ việc này nên “thu hút” vào tội Vu khống sẽ hợp lý hơn. Bởi vì các hành vi trong việc tạo lập hồ sơ, taì liệu không có thật, thành có thật là hành vi Vu khống. Do vậy quy kết Q phạm tội Vu khống theo quy định tại Điều 156 BLHS là có căn cứ.
Đây là vụ việc điển hình, bên cạnh việc phân tích làm rõ xem Q phạm tội gì để xử lý cho đúng, cũng cho mỗi người một bài học về trách nhiệm trước công việc, không khéo “nhiệt tình” một cách mù quáng sẽ dẫn đến vi phạm pháp luật./.
GV Nguyễn Lương
Trường Nghiệp vụ 8 T09 - BCA
Link nội dung: https://phaply.net.vn/dua-nguoi-khong-nghien-di-cai-nghien-bat-buoc-pham-toi-gi-a252596.html