Công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế ở Việt Nam hiện nay

(Pháp lý) - Công khai minh bạch, nhất là công khai minh bạch về thông tin trong các tập đoàn kinh tế đã được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Nghị quyết Đại hội Đảng các nhiệm kỳ gần đây đã nêu bật tầm quan trọng và yêu cầu đẩy mạnh việc thực hiện công khai minh bạch , trước hết là công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế.

Các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch về thông tin trong tập đoàn kinh tế, trong những năm qua, đã phát huy tác dụng , góp phần tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, quy định của pháp luật và việc tổ chức thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế cũng đã và đang bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.

Để công khai, minh bạch, nhất là công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế thực sự trở thành công cụ hữu hiệu bảo đảm để doanh nghiệp phát triển bền vững, hiệu quả cần có sự nghiên cứu toàn diện, nhiều chiều.

1.Vai trò của công khai, minh bạch thông tin trong trong tập đoàn kinh tế

Thực tế xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đã khẳng định vai trò quan trọng của công khai, minh bạch thông tin trong trong tập đoàn kinh tế, cụ thể là:

Thứ nhất, thúc đẩy sự công khai, minh bạch thông tin trong quản lý doanh nghiệp là thúc đẩy kinh tế phát triển phát triển bền vững và hiệu quả.

Thứ hai, công khai, minh bạch hóa thông tin trong quản lý doanh nghiệp có ý nghĩa to lớn trong việc bảo vệ quyền con người, tạo sự an toàn cho hoạt động kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp.

Trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nươc pháp quyền, khi mà Đảng, Nhà nước ta đang quyết tâm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư kinh doanh, những bước đột phá của của vấn đề công khai, minh bạch thông tin được kỳ vọng sẽ góp phần tạo ra những bước chuyển biến mạnh mẽ về mọi mặt ở nước ta.

Thứ ba, công khai, minh bạch thông tin trong quản lý doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế, bảo đảm vị thế và độ tin cậy của Việt Nam trong “sân chơi toàn cầu”.

Pháp luật còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa có quy chế giám sát và chế tài cụ thể việc thực hiện công khai, minh bạch thông tin trong quản lý doanh nghiệp ( ảnh minh họa)

2.Thực trạng thực thi pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế ở Việt Nam

2.1.Hiệu quả thực thi pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế tại Việt Nam

- Thứ nhất, công khai, minh bạch hóa thông tin trong tập đoàn kinh tế, thời gian qua, đã đạt được một số thành quả đáng khích lệ.

Đối với minh bạch thông tin của doanh nghiệp nhà nước niêm yết, theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư , tính đến ngày 31/12/2016, có 241/620 doanh nghiệp (chiếm 38,87% số doanh nghiệp) gửi báo cáo đến Bộ kế hoạch và đầu tư để thực hiện công bố thông tin trên Cổng thông tin doanh nghiệp của Bộ. Đối với cơ quan đại diện chủ sở hữu, mới có 7 bộ, ngành, 7 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và 6 Tập đoàn kinh tế có chuyên mục riêng về công bố thông tin theo quy định của pháp luật. Chính sách của Nhà nước đã bước đầu tạo hành lang pháp lý cho việc giám sát tài chính tại các DN có vốn nhà nước nói chung và các tập đoàn kinh tế nhà nước nói riêng. 100% các tập đoàn kinh tế được khảo sát đã tiến hành giám sát việc bảo toàn và phát triển vốn tại tập đoàn, nội dung phân tích tài chính trong giám sát việc bảo toàn và phát triển vốn được thể hiện thông qua các tiêu chí nhưng phần lớn các tập đoàn kinh tế đều sử dụng chỉ tiêu như: Hệ số bảo toàn vốn; Vốn đầu tư của chủ sở hữu. Trong đó, hệ số bảo toàn vốn = vốn chủ sở hữu cuối kỳ/vốn chủ sở hữu đầu kỳ. Bên cạnh đó, để phản ánh việc bảo toàn và phát triển vốn, một số tập đoàn kinh tế đã sử dụng thêm các chỉ tiêu tài chính để giám sát.

- Thứ hai, việc công khai, minh bạch thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp qua trang thông tin điện tử và các hình thức khác như họp báo, phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí được thực hiện khá tốt.

Hình thức họp báo, phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí ngày càng được sử dụng rộng rãi từ trung ương tới địa phương, trở thành phương tiện hiệu quả để các cơ quan tổ chức, đơn vị thực hiện công khai, minh bạch.

- Thứ ba, hoạt động công khai, minh bạch về thông tin trong tập đoàn kinh tế đã từng bước được thực hiện theo quy định của pháp luật. Thông tin về vốn và việc sử dụng vốn ở khu vực doanh nghiệp nắm giữ nguồn lực lớn nhất của nền kinh tế, hoạt động trong những lĩnh vực cốt lõi, đặc biệt là trong các lĩnh vực độc quyền… ngày rõ ràng, sáng tỏ: Quy trình sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các nguồn lực khác; Quy hoạch, chiến lược cũng như kế hoạch trung hạn, dài hạn đã được công bố công khai.

- Thứ tư, việc xử lý vi phạm quy định về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế đã bược đầu được coi trọng.

2.2. Tồn tại,hạn chế trong quá trình thực thi pháp luật luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế

- Thứ nhất, việc thực hiện công khai, minh bạch thong tin trong tập đoàn kinh tế đã có những chuyển biến tích cực song còn nhiều hạn chế. Nhiều công ty con do tập đoàn, tổng công ty nhà nước nắm giữ 100% vốn cũng chưa thực hiện nghiêm túc quy định công bố thông tin. Bên cạnh căn bệnh chậm trễ mãn tính, phần lớn doanh nghiệp nhà nước, trong đó có tập đoàn kinh tế, đều công bố thiếu các loại thông tin, báo cáo theo quy định.

- Thứ hai, công tác khai báo, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế Nhà nước vẫn còn nhiều bất cập. Những thông tin cần thiết cho việc quản trị doanh nghiệp như báo cáo tài chính năm, báo cáo tài chính giữa niên độ chưa được coi trọng. Những thông tin đã được công bố còn mang tính hình thức, chủ yếu tập trung vào giới thiệu chung về doanh nghiệp, sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, trách nhiệm công bố thông tin chưa rõ,còn hiện tượng đùn đẩy trách nhiệm thay vì cung cấp thông tin theo quy định. Chưa có dự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước để giám sát thực hiện công bố thông tin với người được ủy quyền thực hiện công bố thông tin.

- Thứ ba, chế tài xử lý vi phạm đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm về công khai, minh bạch trong tập đoàn kinh tế còn nhẹ, chưa có tính răn đe; không có chế tài xử lý vi phạm đối với những cá nhân, tổ chức không thực hiện công khai, minh bạch.

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập

2.3.1. Nguyên nhân từ phía pháp luật

- Thứ nhất, quy định pháp luật chưa đầy đủ, còn chồng chéo, mâu thuẫn,chưa có quy chế giám sát và chế tài cụ thể về việc thực hiện công khai, minh bạch thông tin trong quản lý doanh nghiệp.

- Thứ hai, chưa có chế tài xử lý cụ thể, liên thông giữa các luật (như Luật tiếp cận thông tin - Luật phòng chống tham nhũng - Luật hình sự - Luật thương mại…) trong việc xử lý của cơ quan quản lý, người đúng đầu trong việc cung cấp thông tin công khai, minh bạch, đặc biệt trong trường hợp cung cấp thông tin không trung thực, gây thất thoát, thiệt hại lớn về tiền và tài sản của Nhà nước.

2.3.2.Nguyên nhân từ phía các chủ thể , nhất là các doanh nghiệp

- Thứ nhất, chưa có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về quyền hạn và trách nhiệm thông tin và được thông tin; sự quan tâm, hiểu biết của các chủ thể về quyền tiếp cận thông tin còn hạn chế; chưa ý thức được đầy đủ về trách nhiệm và quyền yêu cầu giải trình; chưa nhận thức đầy đủ vai trò của hoạt động công bố thông tin.

- Thứ hai, hiệu quả hoạt động và hiệu quả quản trị của các doanh nghiệp, nhất là của các tập đoàn kinh tế chưa rõ; nợ xấu, hiệu quả kinh doanh kém, hiệu quả sử dụng tài sản trì trệ là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc công bố thông tin chậm, sai lệch;chi phí và minh bạch hóa thông tin cũng là một nguyên nhân dẫn đến những yếu tố tiêu cực trong công khai, minh bạch tập đoàn kinh tế; lợi ích của việc công khai,minh bạch thông tin chưa lấn át được chi phí và rủi ro mà các DN gặp phải khi minh bạch hóa thông tin. Bên cạnh đó, công tác giám sát việc thực hiện công khai, minh bạch thông tin doanh nghiệp, nhất là thông tin về sử dụng vốn và tài sản nhà nước cũng như hoạt động của các doanh nghiệp có nhiều tồn tại, hạn chế.

2.3.3.Những vấn đề đặt ra về thực trạng pháp luật hiện hành về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế ở Việt Nam

- Thứ nhất, cơ chế công khai, minh bạch trong tập đoàn kinh tế vẫn chưa được quy định đầy đủ, cụ thể, nhất là đối với những thông tin cần thiết như: quy định về nội dung thông tin cần công khai, minh bạch; quy định về phương thức, hình thức công bố thông tin; quy định về trách nhiệm, kiểm tra, giám sát công bố thông tin; quy định về việc xử lý vi phạm công bố thông tin. Vấn đề công khai, minh bạch trong tập đoàn kinh tế tư nhân vẫn chưa được rõ ràng, vẫn còn đang bỏ ngỏ. Vì vậy, cần có một văn bản pháp luật có hiệu lực cao quy định về những nội dung này.

- Thứ hai, pháp luật chưa có quy định áp dụng công nghệ thông tin, xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu, báo cáo kết nối giữa chủ sở hữu, các bộ ngành có liên quan trong tập đoàn kinh tế. Nếu không khắc phục vấn đề này thì đây sẽ là một thách thức lớn đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động kiểm tra, giám sát.

- Thứ ba,về quy định chế tài xử lý vi phạm. Có thể thấy, việc phạt tiền các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp Nhà nước không mang lại kết quả, vì tiền của các DNNN là tiền của dân và do đó sẽ không có tác động đến quyết định công khai hóa, minh bạch thông tin của doanh nghiệp. Ngoài ra, chế pháp luật trong việc quy định chế tài xử lý vi phạm đối với người đúng đầu, lãnh đạo doanh nghiệp hiện nay còn chưa đủ mạnh trong việc công khai hóa, minh bạch thông tin.

- Thứ tư, quy định pháp luật về công khai, minh bạch thông tin tập đoàn kinh tế trong khu vực tư nhân cần được chú trọng đặc biệt là đối với các TĐKT, đối với những TĐKT có quy mô lớn, tác động đến nhiều người trong một số lĩnh vực đặc biệt như lĩnh vực ngân hàng ảnh hưởng tới lợi ích người gửi tiền, lĩnh vực bảo hiểm ảnh hưởng tới lợi ích người mua bảo hiểm…

3. Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế

3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế

Hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế phải dựa trên các quan điểm chỉ đạo sau đây:

3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế phải nhằm mục đích phát triển đồng bộ, sáng tạo, bền vững và bao trùm.

Hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế tại Việt Nam nhằm mục đích phát triển đồng bộ, sáng tạo, bền vững và bao trùm, đòi hỏi: Đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội bền vững và bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng; thúc đẩy và gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội, tăng cường phát triển an ninh quốc phòng.

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế tại Việt Nam phải được đặt trong yêu cầu tổng thể xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

Cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, là khối đại đoàn kết dân tộc. Việc xây dựng pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế phải được đặt trong yêu cầu tổng thể Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN là vô cùng cần thiết.

Hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế là góp phần đẩy mạnh hoạt động phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực; góp phần hướng tới một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, tạo nên một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật nghiêm minh.

3.1.3. Hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Việt Nam ngày càng tham gia sâu rộng vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế là một định hướng quan trọng. Việc thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch trong các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam đã ký kết tập trung nhiều ở các nguyên tắc chung (về dự thảo và ban hành quy phạm pháp luật, chính sách, quy định và quy tắc hành chính) cũng như các quy định cụ thể về tiêu chuẩn kỹ thuật, hàng rào kỹ thuật, thông lệ, hải quan và tố tụng.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế

3.2.1.Những vấn yêu cầu cụ thể đối với việc hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế

- Thứ nhất, cần có những quy định nhằm tạo cơ chế công bằng trong việc nắm bắt và tiếp cận thông tin nhằm bảm bảo sự công bằng, quản lý đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.

- Thứ hai, cần mở rộng đối tượng công bố thông tin và có những quy định cụ thể về công khai thông tin những đối tượng đó góp phần tăng sự giám sát, đáp ứng nhu cầu thực tiễn về công khai, minh bạch thông tin. Đồng thời, cần có những chế tài xử phạt mạnh đối với cá nhân, tổ chức không tuân thủ công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế

- Thứ ba, cần có quy định cụ thể về cơ chế phối hợp giữa cơ quan thanh tra với các cơ quan, tổ chức trên thế giới về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế, nhất là đối với các tập đoàn kinh tế lớn, đầu tàu. Nội luật hoá những cam kết về chia sẻ thông tin trong các cam kết quốc tế giữa các cơ quan nhà nước Việt Nam với các nước trên thế giới.

3.2.2.Việc hoàn thiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong quản lý doanh nghiệp cần tập trung vào các nội dung sau:

1) Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật để khắc phục những tồn tại, bất cập trong các văn bản pháp luật hiện hành, nhất là Luật doanh nghiệp, Luật quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước, Luật đầu tư công , Luật kế toán, Luật kiểm toán, Luật thống kê, Luật phòng chống tham nhũng, cụ thể:

- Một là, sửa đổi, bổ sung đối với phương tiện, hình thức công bố thông tin.

Theo đó mở rộng các hình thức công bố thông tin như trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên báo, đài, mạng xã hội… Đây là những phương thức quan trọng để người dân, xã hội thực hiện giám sát, từ đó phát hiện được những trường hợp công bố thông tin không chính xác, không trung thực… Đồng thời là cơ sở quan trọng để các cơ quan, người có thẩm quyền thực hiện việc kiểm tra, thanh tra, giám sát, điều tra xử lý vi phạm.

- Hai là, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về chế tài xử lý phạm công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế. Tăng chế tài hành chính, hình sự và cả chính trị đối với những trường hợp công bố thông tin không đúng, không trung thực.

- Ba là, hoàn thiện quy định về cơ quan quản lý giám sát công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế.

Hiện nay, việc quản lý, theo dõi công bố thông tin được phân cấp, giao cho các cơ quan quản lý nhà nước, cán bộ, công chức chuyên môn và được quyết định bởi người đứng đầu. Việc kiểm sát, kiểm tra công bố thông tin, công khai, minh bạch trong TĐKT được thực hiện bởi một bộ phận, đơn vị nội bộ của cơ quan, tổ chức và thường bộ phận này không có thẩm quyền xác minh tính chính xác của thông tin công bố.Cần có sự phối hợp và giao cho các cơ quan chuyên môn vừa trực tiếp tiếp nhận thông tin đồng thời kiểm tra, xác minh, giám sát thông tin đó.

2) Sửa đổi, bổ sung một số điều quy định của Luật doanh nghiệp để bảo đảm thực hiện nguyên tắc công khai, minh bạch, nhất là công khai, minh bạch về thông tin trong quản lý doanh nghiệp.

Trước hết cần sửa đổi, bổ sung các quy định về trách nhiệm của doanh nghiệp về việc thực hiện đầy đủ, kịp thời các nghĩa vụ về đăng ký doanh nghiệp, công khai thông tin về thành lập và hoạt động, chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của thông tin kê khai trong hồ sơ doanh nghiệp.

3) Xây dựng một đạo luật về công khai, minh bạch thông tin trong đó chú trọng về thông tin trong quản lý doanh nghiệp, tạp đoàn kinh tế.

Luật này điều chỉnh về thông tin, nội dung yêu cầu, quyền và nghĩa vụ,cách thức thực hiện công khai, minh bach thông tin. Phần nội dung quan trọng trong Luật này sẽ là những quy định về công khai, minh bach thông tin trong doanh nghiệp,trong tập đoàn kinh tế.

Công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế là công cụ hữu hiệu để doanh nghiệp phát triển bền vững ( ảnh minh họa)

3.3. Kiến nghị về một số giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả thi hành các quy định pháp luật của hoạt động công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế tại Việt Nam

3.3.1. Giải pháp nâng cao nhận thức

Tăng cường quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cá nhân, cán bộ, công chức, viên chức, người quản lý doanh nghiệp, người đại diện doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế về yêu cầu, mục tiêu, ý nghĩa của việc công bố, kê khai thông tin và việc kiểm tra, giám sát kê khai thông tin.

3.3.2. Giải pháp về tổ chức và điều kiện bảo đảm

- Thứ nhất, tiếp tục thực hiện nghiêm túc các quy định về công khai, minh bạch thông tin tong tập đoàn kinh tế, dẫn nâng cao trình độ nghiệp vụ cho các cá nhân, tổ chức trong quản lý doanh nghiệp đối với các cơ quan nhà nước trong công tác kê khai thông tin, tổng hợp thông tin và quản lý giám sát thông tin. rất cần thiết.

- Thứ hai, tăng cường kiểm tra, thanh tra việc thực hiện pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế.

Trong hoạt động kiểm tra cần được lựa chọn để tiến hành theo những tiêu chí nhất định và kiểm tra không chỉ tiến hành độc lập theo những tiêu chí mà còn phải có sự so sánh, đối chiếu.

- Thứ ba, đẩy mạnh việc giám sát công bố thông tin trong tập đoàn kinh tế. Cần có sự vào cuộc của các cơ quan chức năng trong việc giám sát hoạt động công bố thông tin, theo dõi sát sao những biến động thông tin bất thường, những dấu hiệu bất thường; đẩy mạnh sự tham gia của xã hội trong công tác giám sát công bố thông tin trong tập đoàn kinh tế, đặc biệt là trong phản biện xã hội, tham gia xây dựng hoàn thiện thể chế, chính sách về minh bạch thông tin và giám sát hoạt động công bố, xác minh thông tin trong tập đoàn kinh tế.

- Thứ tư, cần đầu tư các nguồn lực xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật và cơ sở pháp lý cho việc xây dựng cơ sở dữ liệu về công bố thông tin trong tập đoàn kinh tế.

- Thứ năm, đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế cần được tổ chức thực hiện sâu rộng hơn, thường xuyên hơn và hiệu quả hơn.

3.3.5. Tăng cường trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc thực hiện công khai, minh bạch trong tập đoàn kinh tế.

1) Trước hết cần nhấn mạnh trách nhiệm của tập đoàn kinh tế,nhất là người đứng đầu, cần nghiêm túc thực hiện công khai, minh bạch thông tin, quản lý giám sát đối với những cá nhân trực tiếp thực hiện kê khai thông tin, kết hợp với cơ quan nhà nước xử lý những hành vi vi phạm về công khai, minh bạch thông tin đối với những cá nhân, tổ chức vi phạm.

2) Đối với chủ thể trực tiếp thực hiện kê khai, công bố thông tin cần nắm roc các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch thông tin, nắm rõ trình tự thủ tục, cách thức, thời gian nội dung kê khai thông tin…

3) Đối với các chủ thể khác không phải người quản lý giám sát cũng không phải là người trực tiếp thực hiện kê khai, công bố thông tin cần tham gia giám sát, phát giác những hành vi vi phạm pháp luật về công khai, minh bạch thông tin.

*

* *

Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế và Việt Nam đang đẩy mạnh hợp tác kinh tế quốc tế, hơn lúc nào hết chúng ta cần nhận thức được vai trò to lớn của hoạt động công khai, minh bạch thông tin trong tập đoàn kinh tế. Tuy còn nhiều khó khăn, thách thức, nhưng với quyết tâm chính trị to lớn, với những giải pháp đề ra,nhất định chúng ta sẽ thực hiện hiệu quả việc công khai , minh bạch trong quản lý doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển Việt Nam tring gia đoạn mới.

Tạ Thị Hoàng Anh, HV Ngân hàng Hà nội

DANH MỤC VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, NXB Chính trị quốc gia, HN năm 2016.

2.Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng. (2003).

3.Công khai, minh bạch - xu hướng tất yếu. (21/6/2017).
https://baodauthau.vn/thoi-su/cong-khai-minh-bach-xu-huong-tat-yeu-43419.html.

4.Hội thảo quốc tế Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng ở trên thế giới và Việt Nam. (3/10/2019). Đại sứ quán Anh, Khoa luật ĐHQG Hà Nội, Viện khoa học môi trường và xã hội.

5.Báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư về tình hình công bố thông tin (CBTT) của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) năm 2016. (n.d.).

6.Hữu Tâm - NDH. (13/11/2010). Doanh nghiệp nhà nước: Đa phần thiếu minh bạch. https://ndh.vn/doanh-nghiep/doanh-nghiep-nha-nuoc-da-phan-thieu-minh-bach-.html?

7.Lê Viết Giang. (2014). "Nguyên tắc công khai, minh bạch trên thị trường chứng khoán theo pháp luật Việt Nam". ĐHQG Hà Nội.

8.Nguyễn Thành. (21/6/2017). Minh bạch hoạt động doanh nghiệp thời hội nhập. https://baodauthau.vn/doanh-nghiep/minh-bach-hoat-dong-doanh-nghiep-thoi-hoi-nhap-43404.html.

9.Nguyễn Thị Hải Vân. (n.d.). Tăng cường minh bạch thông tin doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam. Xem Tạp chí tài chính ngày 3/2/2019.

10.Thúy Nguyễn. (21/6/2017). Công khai minh bạch và sự phát triển bền vững. https://baodauthau.vn/thoi-su/cong-khai-minh-bach-va-su-phat-trien-ben-vung-43402.html.

11.TS Vũ Đình Ánh. (n.d.). Công khai minh bạch trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Tạp chí nhân dân điện tử.

12.Vietstock. (n.d.). khảo sát về mức độ tuân thủ các quy định công bố thông tin bắt buộc theo Thông tư số 155/2015/TT-BTC năm 2017.

Link nội dung: https://phaply.net.vn/cong-khai-minh-bach-thong-tin-trong-tap-doan-kinh-te-o-viet-nam-hien-nay-a236573.html