(Pháp lý) - LTS: Trong hệ thống pháp luật điều chỉnh lĩnh vực phòng, chống tham nhũng (PCTN), có thể thấy 3 “công cụ” pháp luật điều chỉnh trực tiếp nhất là 3 đạo luật: Luật Phòng, chống tham nhũng, Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự. Vậy các đạo luật này hiện nay đã đủ sắc bén? Nhiều ý kiến Đại biểu Quốc hội, chuyên gia pháp luật hình sự khi được hỏi đều có chung đề xuất kiến nghị cần tiếp tục “mài rũa” để các “con dao” pháp luật này sắc bén hơn.
Pháp lý tiếp tục chuyên đề “Chung tay hoàn thiện cơ chế chính sách pháp luật để phòng, chống tham nhũng hiệu quả” bằng các bài viết đăng tải các ý kiến góp ý của Đại biểu Quốc hội, chuyên gia pháp luật hình sự vào 3 đạo luật trên.
Bài 19: Dự thảo Luật PCTN (sửa đổi) và 4 vấn đề lớn đặt trên bàn nghị sự
Thời gian vừa qua đã có nhiều cuộc Hội thảo, Tọa đàm góp ý Dự thảo Luật PCTN (sửa đổi). Trước thềm kỳ họp thứ sáu Quốc hội khóa XIV, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tổ chức các cuộc họp cho ý kiến góp ý dự án Luật quan trọng này. Hiện có 4 vấn đề lớn được Đại biểu và cử tri đặc biệt quan tâm, đó là: phạm vi điều chỉnh; cơ quan kiểm soát thu nhập tài sản; kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức; xử lý tài sản tăng thêm bất minh.
1. Phạm vi điều chỉnh của Luật: Có mở rộng PCTN sang khu vực tư?
Hiện vẫn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh phạm vi điều chỉnh của dự Luật PCTN đối với khu vực ngoài nhà nước. Nhiều ý kiến ĐBQH tán thành với dự thảo Luật về mở rộng phạm vi áp dụng một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước. Một số ý kiến không tán thành với việc mở rộng này. Một số ý kiến ĐBQH đề nghị rà soát để bảo đảm quy định của Luật bao quát hết được các doanh nghiệp ngoài nhà nước, các tổ chức tôn giáo, nhà chùa. Có ý kiến đề nghị chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước khi họ tham gia các dự án có vốn, tài sản nhà nước…
Trong báo cáo trước kỳ họp Quốc hội tới, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, việc mở rộng phạm vi áp dụng một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng ra khu vực ngoài nhà nước trong giai đoạn hiện nay là cần thiết, vì trên thực tế, tình hình tham nhũng khu vực ngoài nhà nước đã và đang xuất hiện làm ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước và hiệu quả công tác PCTN. Việc mở rộng phạm vi điều chỉnh ra khu vực ngoài nhà nước phù hợp với quan điểm của Đảng tại Kết luận số 10-KL/TW, đồng bộ với Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS) đã quy định một số tội phạm tham nhũng đối với doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước , phù hợp với yêu cầu của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên.
Do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho mở rộng phạm vi áp dụng một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện như quy định của dự thảo Luật.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, Điều 86 của dự thảo Luật được chỉnh lý theo hướng: giao cho Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng các biện pháp về công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động, kiểm soát xung đột lợi ích, trách nhiệm của người đứng đầu trong công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động đóng góp của nhân dân để hoạt động từ thiện.
2. Kê khai tài sản, thu nhập: Quan trọng là phương thức kê khai và xác minh
Hiện đối tượng kê khai tài sản thu nhập được quy định tại điều 35. Khi thảo luận về vấn đề này, nhiều ý kiến ĐBQH tán thành với việc mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai như quy định của dự thảo Luật; Một số ý kiến của đại biểu lại đề nghị thu hẹp đối tượng có nghĩa vụ kê khai, tập trung vào các vị trí có nguy cơ tham nhũng cao để phù hợp với năng lực của cơ quan kiểm soát và khả năng đầu tư nguồn lực cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập…
Cho ý kiến về vấn đề trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, một trong những hạn chế, vướng mắc lớn trong kiểm soát tài sản, thu nhập thời gian qua có nguyên nhân quy định chưa thật sự hợp lý của Luật PCTN hiện hành về việc mọi đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập đều áp dụng chung một biện pháp kê khai, theo dõi biến động, xác minh tài sản, thu nhập mà không phân biệt các nhóm đối tượng cần phải có mức độ kiểm soát khác nhau trong khi số đối tượng phải kê khai tài sản, thu nhập là rất lớn.
Điều 36 (Dự thảo): Tài sản, thu nhập phải kê khai
1. Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và các tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng.
2. Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá trị và các loại động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên.
3. Tài sản, tài khoản ở nước ngoài.
4. Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, dự thảo Luật đã phân biệt rõ các nhóm đối tượng khác nhau để áp dụng phương thức kê khai, xác minh tài sản, thu nhập phù hợp. Theo đó, người giữ chức vụ từ Giám đốc sở hoặc tương đương trở lên, người công tác tại các vị trí có nguy cơ tham nhũng cao phải kê khai tài sản, thu nhập hàng năm với mục đích nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn. Các đối tượng khác chỉ phải kê khai lần đầu hoặc kê khai bổ sung với mục đích chủ yếu nhằm tạo cơ sở dữ liệu để so sánh, đối chiếu khi họ được bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn hoặc khi có tố cáo, có biến động tăng về tài sản, thu nhập từ 300 triệu đồng trở lên trong một năm... Đồng thời, dự thảo Luật quy định thu hẹp đầu mối các cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập, chủ yếu giao cho hệ thống thanh tra cấp tỉnh, Thanh tra Chính phủ để bảo đảm tính chuyên nghiệp; bổ sung quy định về xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm không giải trình được hợp lý về nguồn gốc... Các quy định này cơ bản đáp ứng yêu cầu tập trung kiểm soát tài sản, thu nhập của những người đứng đầu hoặc công tác tại các vị trí có nguy cơ tham nhũng cao, bảo đảm phù hợp với năng lực của cơ quan kiểm soát và khả năng đầu tư nguồn lực cho việc kiểm soát tài sản, thu nhập, qua đó tăng cường hơn hiệu lực, hiệu quả của các biện pháp này trong PCTN.
Do đó, tiếp thu ý kiến của nhiều ĐBQH, đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về mở rộng phạm vi đối tượng có nghĩa vụ kê khai để bảo đảm phù hợp với chủ trương của Đảng về từng bước mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập, đáp ứng tốt hơn yêu cầu PCTN trong tình hình hiện nay. Đồng thời, dự thảo Luật cũng chỉnh lý theo hướng mở rộng các đối tượng kê khai lần đầu là sĩ quan Quân đội nhân dân và sĩ quan Công an nhân dân.
Cơ quan nào kiểm soát tài sản, thu nhập?
Hiện có nhiều ý kiến khác nhau về cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập. Theo đó, phương án 1 của dự thảo Luật, giao cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra các bộ, ngành, Thanh tra cấp tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của tất cả các đối tượng có nghĩa vụ kê khai; Phương án 2 là giao cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra các bộ, ngành, Thanh tra cấp tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của những người kê khai công tác tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương; các cơ quan khác và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội chịu trách nhiệm kiểm soát tài sản, thu nhập của người kê khai công tác trong cơ quan, tổ chức mình; Lại có những ý kiến ĐBQH đề nghị thành lập cơ quan chuyên trách hoặc giao cho cơ quan của Quốc hội thực hiện việc kiểm soát tài sản, thu nhập; có ý kiến đề nghị giữ như quy định của Luật hiện hành.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, Luật PCTN hiện hành quy định cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập là cơ quan quản lý người có nghĩa vụ kê khai tài sản. Quy định này dẫn đến quá nhiều cơ quan có chức năng quản lý bản kê khai và xác minh tài sản, thu nhập; cán bộ làm công tác này thực chất là cán bộ làm công tác tổ chức, thiếu nghiệp vụ, kinh nghiệm về kiểm soát tài sản, thu nhập dẫn đến việc thực hiện còn hình thức, hiệu quả thấp. Để khắc phục những hạn chế này thì việc sửa đổi mô hình cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập cần theo hướng tăng cường một bước tính tập trung, nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với thực tiễn tổ chức bộ máy nhà nước ta hiện nay, bảo đảm tính khả thi. Nếu theo phương án 1 của dự thảo Luật do Chính phủ trình, giao cơ quan thanh tra kiểm soát tài sản thu nhập, hoặc thành lập cơ quan chuyên trách để kiểm soát tài sản, thu nhập thì có thể gây quá tải, thiếu khả thi, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của cơ quan này, nhất là trong điều kiện dự thảo Luật đã mở rộng đối tượng có nghĩa vụ kê khai và giao thêm nhiều thẩm quyền cho cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập .
Điều 37 (Dự thảo): Phương thức và thời điểm kê khai tài sản, thu nhập
1. Kê khai lần đầu được thực hiện đối với các trường hợp sau đây:
a) Người đang giữ chức vụ hoặc có vị trí công tác được quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 35 của Luật này phải thực hiện việc kê khai tài sản, thu nhập theo quy định của Luật này và hoàn thành trước ngày 01 tháng 01 năm 2020;
b) Người lần đầu giữ chức vụ hoặc có vị trí công tác được quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 35 của Luật này. Việc kê khai tài sản, thu nhập phải hoàn thành chậm nhất 10 ngày kể từ ngày được bầu, phê chuẩn, tiếp nhận, tuyển dụng, bổ nhiệm, bố trí công tác.
2. Kê khai bổ sung được thực hiện khi người có nghĩa vụ kê khai có tài sản, thu nhập tăng thêm trong năm có giá trị từ 300.000.000 đồng trở lên và phải hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 của năm có tài sản, thu nhập tăng thêm đó, trừ trường hợp đã kê khai theo quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Kê khai hằng năm được thực hiện đối với các trường hợp sau đây:
a) Người giữ chức vụ từ Giám đốc sở và tương đương trở lên. Việc kê khai phải được hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 hằng năm;
b) Người không thuộc quy định tại điểm a khoản này làm công tác tổ chức cán bộ, quản lý tài chính công, tài sản công hoặc trực tiếp giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Việc kê khai phải được hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 hằng năm.
4. Kê khai phục vụ công tác cán bộ được thực hiện đối với các trường hợp sau đây:
a) Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập quy định tại khoản 4 Điều 35 của Luật này. Thời điểm kê khai được thực hiện theo quy định của pháp luật về bầu cử;
b) Người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 35 của Luật này khi được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ khác.
Việc kê khai tài sản, thu nhập phải hoàn thành chậm nhất 10 ngày trước ngày được bầu, phê chuẩn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, cử giữ chức vụ khác.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.
Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho chỉnh lý Điều 31 của dự thảo Luật theo hướng giao cho Thanh tra Chính phủ, Thanh tra các bộ, ngành, Thanh tra tỉnh kiểm soát tài sản, thu nhập của những người thuộc diện kê khai công tác tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương; các cơ quan khác và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội chịu trách nhiệm kiểm soát tài sản, thu nhập của người kê khai công tác trong cơ quan, tổ chức mình.
Xử lý đối với tài sản “bất minh”: Thẩm quyền thuộc Tòa án?
Hiện có 3 phương án xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc. Phương án thứ nhất là thu thuế, theo đó nếu Nhà nước không chứng minh được tài sản, thu nhập tăng thêm của người có nghĩa vụ kê khai do phạm tội, vi phạm pháp luật mà có thì tạm coi đây là một khoản thu nhập phải chịu thuế, người kê khai phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Phương án thứ 2 là xử phạt hành chính: Ưu điểm của phương án này là bổ sung thêm một loại chế tài để xử lý hành vi kê khai không trung thực bên cạnh chế tài xử lý kỷ luật như Luật hiện hành; thể hiện thái độ nghiêm khắc của Nhà nước trong việc xử lý hành vi không giải trình được hợp lý về nguồn gốc tài sản, thu nhập.
Về phương án 3 là xem xét, giải quyết tại Tòa án. Theo phương án này, đối với tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc, Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập sẽ chuyển Kết luận xác minh và các tài liệu có liên quan để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xem xét, quyết định về tính hợp lý của việc giải trình; Tòa án ra quyết định thu hồi tài sản, thu nhập tăng thêm nếu người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc hoặc bác yêu cầu của Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập trong trường hợp quyết định người có nghĩa vụ kê khai đã giải trình hợp lý về nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm.
Do còn có nhiều ý kiến khác nhau, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho ý kiến về 02 phương án:
Phương án 1: Việc xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc sẽ do Tòa án xem xét, quyết định. Trong trường hợp kết luận tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ban hành Kết luận xác minh, Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập phải chuyển Kết luận xác minh và các tài liệu có liên quan đến Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu xem xét, quyết định về tính hợp lý của việc giải trình và xử lý đối với tài sản, thu nhập này.
Tòa án xem xét, quyết định về tính hợp lý của việc giải trình và ra một trong các quyết định sau đây: Bác yêu cầu của Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập trong trường hợp người có nghĩa vụ kê khai giải trình được hợp lý về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm; Thu hồi tài sản, thu nhập trong trường hợp người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm; Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục Tòa án xem xét, quyết định thu hồi tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc và việc thi hành quyết định của Tòa án.
Phương án 2: Trường hợp kết luận có tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc và cơ quan có thẩm quyền cũng không chứng minh được tài sản, thu nhập này do vi phạm pháp luật mà có thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ban hành Kết luận xác minh, Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập có trách nhiệm chuyển vụ việc sang cơ quan quản lý thuế có thẩm quyền yêu cầu thu thuế thu nhập cá nhân theo quy định của pháp luật về thuế;
Người có nghĩa vụ kê khai phải nộp thuế theo quy định tại khoản 1 Điều này có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện quyết định của cơ quan quản lý thuế theo quy định của pháp luật; Việc thu thuế quy định tại khoản 1 Điều này không loại trừ việc xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự và tịch thu tài sản đối với người có nghĩa vụ kê khai, nếu các cơ quan có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ việc hành chính mà chứng minh được tài sản, thu nhập này do vi phạm pháp luật mà có.
Hai phương án xử lý tài sản không giải trình được nguồn gốc sẽ được đưa ra Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 6 tới đây.
Điều 40 (Dự thảo): Công khai bản kê khai tài sản, thu nhập
1. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người có nghĩa vụ kê khai phải được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc.
2. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người dự kiến được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, tổ chức, đơn vị phải được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm.
3. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân phải được công khai theo quy định của pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân.
4. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người dự kiến được bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân phải được công khai với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trước khi bầu, phê chuẩn. Thời điểm, hình thức công khai được thực hiện theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
5. Bản kê khai tài sản, thu nhập của người dự kiến bầu giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại doanh nghiệp nhà nước được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm khi tiến hành bổ nhiệm hoặc tại cuộc họp của Hội đồng thành viên khi tiến hành bầu các chức vụ lãnh đạo, quản lý.
6. Chính phủ quy định chi tiết về thời điểm, hình thức công khai bản kê khai tài sản, thu nhập tại các khoản 1, 2 và 5 Điều này.
Anh Tuấn (tổng hợp)