Vụ án xảy ra tại Công ty Chứng khoán Tràng An: Thận trọng để tránh oan sai

(Pháp lý) - Cựu Tổng Giám đốc Công ty Chứng khoán Tràng An là Lê Hồ Khôi và đồng phạm bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” về hành vi chỉ đạo cấp dưới lập khống hợp đồng để vay vốn và chiếm đoạt số tiền 205 tỷ đồng của các nhà băng thông qua hình thức ủy thác đầu tư. Mới đây, TAND TP. Hà Nội quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung để xem xét lại vai trò đồng phạm và tội danh của một số bị cáo.

[caption id="attachment_157810" align="aligncenter" width="599"] Các bị cáo tại Tòa
Các bị cáo tại Tòa[/caption]

Truy tố với tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Công ty Chứng khoán Tràng An (TAS) do ông Lê Hồ Khôi làm Tổng Giám đốc. Năm 2012, Ngân hàng TMCP nhà Hà Nội (HBB, nay đã sáp nhập vào SHB) tố cáo TAS chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng thông qua hình thức ủy thác đầu tư để vay vốn.

Kết quả điều tra thể hiện, để có tiền trả nợ và phục vụ cho việc kinh doanh, năm 2010, Lê Hồ Khôi bàn bạc với Trịnh Văn Toàn (Phó Tổng Giám đốc) chỉ đạo các nhân viên dưới quyền lập khống hồ sơ của 24 khách hàng.

Sau đó, nhóm bị can ký hợp đồng hợp tác dưới hình thức ủy thác đầu tư vay tiền, hợp tác thanh toán tiền mua chứng khoán đã khớp lệnh, ứng trước tiền bán chứng khoán đã khớp lệnh với các tổ chức, chiếm đoạt tổng số tiền 205 tỷ đồng.

Cụ thể, năm 2010, Lê Hồ Khôi ký hợp đồng hợp tác thanh toán tiền mua chứng khoán đã khớp lệnh với EVN-Finance. TAS sẽ giới thiệu khách hàng và chịu trách nhiệm về tính hợp pháp, hợp lệ của hồ sơ cung cấp.

Dưới sự chỉ đạo của cấp trên, Nguyễn Ngọc Lan (Kế toán trưởng) cung cấp tên tuổi, thông tin liên quan của 11 khách hàng (người thân và bạn bè) mở tài khoản chứng khoán tại TAS, lập hồ sơ theo mẫu do EVN-Finance cung cấp. Lan và Lê Quang Hưng (kế toán) ký trực tiếp vào tài liệu trong hồ sơ. Để hoàn thiện hồ sơ vay tiền, Lan tự tạo mã và số lượng chứng khoán khống phù hợp với khoản vay trong bản báo cáo tổng hợp rồi chuyển cho Khôi ký xác nhận.

Với các hợp đồng trên, EVN Finance giải ngân số tiền 104,5 tỷ đồng vào tài khoản của TAS. Toàn bộ số tiền trên, TAS sử dụng thanh toán bù trừ với Trung tâm lưu ký chứng khoán (VSD) và trả nợ ngân hàng. Để khắc phục hậu quả, TAS đã chuyển trả 51 tỷ đồng và thế chấp tài sản, chuyển nhượng số cổ phiếu tương đương 30,5 tỷ đồng.

Nhóm bị can còn bị truy tố chiếm đoạt 56 tỷ đồng của Ngân hàng HBB vào tháng 10/2010. Sau đó, TAS ký hợp đồng với BIDV – chi nhánh Hai Bà Trưng hợp tác cung cấp dịch vụ ứng tiền bán chứng khoán vay 45 tỷ đồng.

Quá trình điều tra các bị can khắc phục được 131,9 tỷ đồng. Hiện 3 tổ chức ngân hàng yêu cầu TAS phải có trách nhiệm bồi thường số tiền còn lại là 73,5 tỷ đồng.

5 bị cáo hầu tòa tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gồm: Lê Hồ Khôi (nguyên Tổng Giám đốc), Trịnh Văn Toàn (SN 1969, cựu Phó Tổng Giám đốc), Nguyễn Thị Ngọc Lan (SN 1978, kế toán trưởng), Lê Quang Hưng (SN 1980, kế toán) và Nguyễn Trí Dũng (SN 1982, cựu Phó Giám đốc). TAND TP. Hà Nội quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung để xem xét lại vai trò đồng phạm và tội danh của một số bị cáo, trong đó đáng chú ý là trường hợp Nguyễn Trí Dũng, Phó Giám đốc Phòng môi giới chứng khoán.

Chuyển sang tội “Sử dụng trái phép tài sản”

Tại Kết luận điều tra số 86 ngày 06/01/2014 của Cơ quan điều tra Công an TP. Hà Nội (Trang 33,34,36) sau khi điều tra và lấy lời khai của các bị can đã kết luận các bị can Lê Hồ Khôi – Tổng Giám đốc, Trịnh Văn Toàn – Phó Tổng Giám đốc và Nguyễn Thị Ngọc Lan - Kế toán trưởng của Công ty Chứng khoán Tràng An phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đối với Nguyễn Trí Dũng, Phó Giám đốc Phòng môi giới chứng khoán, cơ quan điều tra đã kết luận: “Dũng làm việc dưới sự chỉ đạo của Khôi, Toàn và Lan, đã ký xác nhận dưới mục giám đốc trong báo cáo tổng hợp tài khoản chứng khoán của các khách hàng do Lan chuyển đến, thấy có đủ chữ ký của người lập biểu, người kiểm soát nên đã ký, không được các bị can Khôi, Toàn và Lan bàn bạc trước. Bản thân không được hưởng lợi gì. Xét thấy sai phạm của Dũng chưa đến mức phải xử lý bằng pháp luật hình sự, CQĐT có văn bản kiến nghị chính quyền xử lý hành chính nghiêm khắc".

Đến tháng 9/2014, Nguyễn Trí Dũng nhận được kết luận điều tra bổ sung số 205/KLĐTBS-PC46, ngày 06/9/2014 và bản cáo trạng số: 564/CT-VKS-P1B, ngày 25/11/2014 của VKSND TP. Hà Nội, đã bổ sung nội dung: “Để có tiền trả nợ và phục vụ công việc kinh doanh của Công ty, Lê Hồ Khôi đã bàn bạc với Trịnh Văn Toàn chỉ đạo các nhân viên dưới quyền là Nguyễn Thị Ngọc Lan, Lê Quang Hưng và Nguyễn Trí Dũng thực hiện việc lập khống hồ sơ… chiếm đoạt tổng số tiền 205.572.100.000 đ…" bổ sung bị can Nguyễn Trí Dũng phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" quy định tại khoản 4 Điều 139 BLHS.

Tại phiên tòa sơ thẩm tháng 9/2015, các bị cáo Khôi, Toàn và Lan đều có lời khai xác nhận không có ai bàn bạc hoặc chỉ đạo Dũng lập hồ sơ khống để vay tiền… Bị cáo Khôi luôn nhấn mạnh việc chỉ đạo cấp dưới trong các cuộc họp Công ty là tiếp xúc với các tổ chức tín dụng, ngân hàng và thực hiện các hoạt động huy động vốn đúng các yêu cầu của pháp luật. Như vậy, Hội đồng xét xử đã làm rõ việc các bị cáo Khôi, Toàn và Lan không chỉ đạo hoặc bàn bạc với Dũng về việc làm hồ sơ khống để vay tiền của các tổ chức tín dụng. Kết quả xét hỏi tại phiên tòa phù hợp với tài liệu và Kết luận điều tra số 86 ngày 06/01/2014 của Cơ quan điều tra TP. Hà Nội. Như vậy, trong 4 yếu tố cấu thành tội phạm thì "Ý thức chủ quan" của Dũng không thỏa mãn, vì vậy Dũng không thể là đồng phạm trong vụ án.

Hội đồng xét xử đã quyết định trả hồ sơ cho VKSND Tp Hà Nội để điều tra bổ sung, trong đó có thêm nội dung "Bổ sung chứng cứ xác định mục đích chiếm đoạt tiền của các bị can".

Sau gần một năm, cơ quan điều tra và VKSND Tp Hà Nội xem xét thấy các bị can không có ý thức chiếm đoạt tiền nên đã kết luận các bị can phạm tội "Sử dụng trái phép tài sản".

Phân tích các hành vi của Dũng trong vụ án này và đối chiếu với quy định của pháp luật thì thấy Dũng và một số cán bộ trong Công ty đã làm hồ sơ vay vốn giúp Công ty là có thật với mục đích mua chứng khoán đã khớp lệnh, hồ sơ rõ ràng đúng quy định tại khoản 2 điều 3 Hợp đồng hợp tác thanh toán tiền mua chứng khoán số 40/2010/HĐHT-TCĐL-TAS và tại Giấy đề nghị hợp tác đầu tư của từng cá nhân vay tiền. Nếu bên vay và bên cho vay là căn cứ vào số liệu giao dịch tiền mua chứng khoán đã khớp lệnh tại báo cáo tổng hợp tài khoản chứng khoán ( THTKCK) do Dũng ký thì thiệt hại không thể xảy ra, số tiền thực mua chứng khoán đã khớp lệnh do Dũng ký tại 11 Báo cáo THTKCK chỉ là 7.213.041.755đ. Nhưng sau đó Công ty CPTC Điện lực đã giải ngân theo Thông báo giải ngân do Khôi và Lan lập có số liệu khống trên 97 tỷ đồng .

Nhìn lại toàn bộ diễn biến của vụ việc cho thấy, Dũng chỉ có hành vi duy nhất là ký bản Báo cáo THTKCK, trong báo cáo có phần sai sót nhưng sai sót không liên quan đến việc giải ngân. Phần liên quan đến việc giải ngân thì có số liệu đúng nhưng không được lãnh đạo Công ty CP Chứng khoán Tràng An (Bên vay) và Công ty CPTC Điện lực (Bên cho vay) sử dụng… Chưa kể đến việc bản Báo cáo THTKCK là văn bản không có giá trị pháp lý (không được đại diện của pháp nhân ký tên, đóng dấu) và không phải là tài liệu quy định phải có trong hồ sơ vay vốn (Bên vay và bên cho vay đã ký Hợp đồng hợp tác quy định Hồ sơ giải ngân chỉ gồm 06 loại giấy tờ cụ thể, không có Báo cáo THTKCK), tài liệu Dũng ký không phải là căn cứ giải ngân, nên Dũng không phải chịu trách nhiệm về việc giải ngân khống của hai pháp nhân (với số tiền khống trên 97 tỷ đồng). Toàn bộ tiền vay được đã chuyển vào tài khoản của Công ty CP Chứng khoán Tràng An, sau đó lãnh đạo Công ty CP Chứng khoán Tràng An sử dụng không đúng mục đích (được liệt kê chi tiết tại trang 5,6,11 bản cáo trạng số 356/CT-VKS-P5 của VKSND TP. Hà Nội).

Đối chiếu với quy định của pháp luật, thiết nghĩ, cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét lại căn cứ pháp lý khi quy kết Nguyễn Trí Dũng là đồng phạm tội "Sử dụng trái phép tài sản" .

Thái Bảo

 

Link nội dung: https://phaply.net.vn/vu-xay-ra-tai-cong-ty-chung-khoan-trang-trong-de-tranh-oan-sai-a157809.html